Bài dịch riêng (in đậm gạch chân) kính tặng hai hiệp sĩ Trường Túc và Túy Sầu-bạn em :)
Đôi lời muốn nói:
- Tôi đọc bản dịch khác có trước đầu tiên, ở đây, qua sự chỉ dẫn từ một người bạn. Tất nhiên, không phải vô tình mà bạn lại gửi link cho tôi đọc. Bản dịch này hình như là dịch từ bản tiếng Anh nên tôi hỏi bạn có cần tôi dịch lại một bản từ nguyên văn tiếng Trung. Vì thế bản dịch này ra đời như một món quà riêng cho hai người bạn tôi và cũng như một tài liệu tham khảo cho riêng tôi.
- Ở các bản dịch khác, như ở đây chẳng hạn mọi người luôn dịch chữ "đạo thống" của Nho gia thành "đạo đức truyền thống". Điều này khiến tôi thất vọng. Đương nhiên, tôi không chỉ thất vọng với mỗi chi tiết đó. Nếu không tôi đã không mất công dịch lại.
- 丧家狗:Tang gia cẩu (chó nhà đám) hay Táng gia cẩu (chó mất nhà)? Tôi cho là "táng gia cẩu" nghĩa là chó mất nhà, chó không có nhà thì đúng hơn. Bởi vì đây cũng là ý mà Lý Linh muốn dùng để minh họa về hình ảnh người trí thức cổ đại giống như một con chó lang thang lưu lạc không có nơi thuộc về mình.
- Dịch bài này không có nghĩa là tôi tán đồng quan điểm của Lưu Hiểu Ba. Tôi cố gắng trung thành nhất với những gì Lưu Hiểu Ba chuyển tải. Và mặc dù đây là một bài viết mang tính công kích nhưng tôi vẫn cố gắng giữ thái độ "tâm bình khí hòa"-thái độ đọc Luận ngữ của Lý Linh mà Lưu Hiểu Ba rất tán thưởng-để duy trì trạng thái trung lập khi dịch. Kỳ thực, đó là điều rất khó. Trong quá trình dịch, tôi không ít lần nổi khí xung thiên muốn chỉ trời vạch đất mà tranh biện với Lưu tiên sinh. :)
- Tôi đã đọc cả Luận ngữ tâm đắc của Vu Đan lẫn Táng gia cẩu-Tôi đọc Luận ngữ của Lý Linh. Nếu có thời gian, tôi sẽ dịch đầy đủ Lời nói đầu trong cuốn sách của Lý Linh cho hai đồng chí bạn đọc chơi luôn .
- Cuối cùng, người Trung Quốc đã từng có tiền lệ Lã Bất Vi buôn vua, người hiện đại có buôn Thánh cũng chả có gì bất thường. Nhưng rốt cục, lợi hại nhất vẫn là đám buôn nước bọt và buôn bàn phím.
Bản gốc Trung văn của tác giả Lưu Hiểu Ba ở đây
Người Trung Quốc đang sình
sịch chuyện đại quốc quật khởi, từ kinh tế quật khởi tới văn hóa quật khởi, từ
rải tiền khắp thế giới đến xuất khẩu quyền lực mềm. Trong nước, sau “cơn sốt giảng
đọc kinh điển”, “cơn sốt tế Khổng”, “cơn sốt Nho giáo”, chương trình Bách gia giảng đàn của đài truyền hình
Trung Ương lại dấy lên “cơn sốt giảng đọc Khổng Tử” nhằm kiến tạo lại “đạo thống”[i]
của Trung Quốc. Ở hải ngoại, Trung cộng đầu tư hạng mục lớn xây dựng các “Viện
Khổng Tử” với mục đích xuất khẩu quyền lực mềm. Đó là một dạng phát tiết tâm
thái “thiên hạ vi gia” vốn bị đè nén trăm năm nay, nối liền đức Thánh Khổng
trong nước thành một dải với đức Thánh Khổng ở nước ngoài, khiến diễn biến của
cơn sốt Khổng Tử ngày càng trở nên kịch liệt.
Đằng sau trào lưu nóng bỏng
đó, tôi nhận thấy không phải là sự phục hưng của văn hóa cổ điển, mà là sự sống
lại của truyền thống “sùng Thánh”, là một bộ phận của chủ nghĩa dân tộc cực
đoan theo đường hướng quan phương. Bởi vì, sau sự kiện “lục tứ”[ii],
đám quan quyền một mặt phụng sự thừa hành chống tự do hóa, chống diễn biến hòa
bình; một mặt chủ trương và phát động chủ nghĩa ái quốc; chủ nghĩa ái quốc đã
trở thành một trong những nhánh chủ lưu trong hình thái ý thức của chính quyền
Trung cộng hiện nay, cùng phối hợp với lời kêu gọi “tiểu khang thịnh thế”[iii]
của giới quan phương là sự lan tràn của chủ nghĩa dân tộc. Ví dụ như
câu viết trong đoạn kết bài văn tế tại buổi đại điển tế Khổng dịp
quốc tế văn hóa về Khổng Tử năm 2005 tại Khúc Phụ Trung Quốc: “Tiểu Khang kíp thành, Đại Đồng còn
mộng, chào mừng thịnh thế, cường quốc uy phong”, chính là văn bản
điển hình của tấu khúc song trùng giữa “chủ nghĩa dân tộc” và “phúc
âm thịnh thế”.
Suốt một năm lại đây,
chương trình “Bách gia giảng đàn” của đài truyền hình Trung Ương Trung
Quốc đã hoằng dương văn hóa truyền thống, đã dấy lên “cơn sốt Vu Đan”
khuynh đảo toàn quốc. Một mặt báo chí và truyền thông đã thành công
trong việc thương mại hóa, thời thượng hóa Khổng Tử (dùng cách nói
của Lỗ Tấn thì là “modern Khổng Tử”), giống như đã từng thời thượng
hóa, thương mại hóa Mao Trạch Đông những năm trước đây. Tất cả các
loại thư tịch có liên quan đến Khổng Tử đã trở thành loại sách bán
chạy đem lại nhiều lợi nhuận cho nền thương nghiệp sách; các lớp
quốc học và các lớp giảng đọc kinh điển cũng nằm trong hạng mục thu
lợi nhuận cao (thí dụ, học phí cho “lớp quốc học” tại Đại học Thanh
Hoa là 26000 NDT mỗi người, tại Đại học Phúc Đán là 38000 NDT mỗi
người, tại lớp giảng đọc kinh điển cho thiếu nhi thì học phí còn ở
mức trên trời hơn nữa). Mặt khác, ngôn ngữ mà Vu Đan giảng về Khổng
Tử là thứ ngôn ngữ chào hàng hỗn hợp giữa những lời đao to búa lớn
của cổ nhân lẫn với những ca từ đang thịnh hành. Sự giải đọc tùy tiện
và nông cạn của bà về Khổng Tử là liều ma túy tinh thần bơm đầy tính
thông tục hóa cho “cơn sốt phục hưng Nho giáo”. Tinh hoa của Khổng Tử theo cách
giải thích của Vu Đan trong Luận ngữ tâm
đắc là: ai ai cũng có thể sống được một cách thoải mái dễ chịu với tâm thức
khuyển Nho- cho dù gặp phải chuyện gì, chỉ cần không kêu ca phàn nàn, chỉ cần nhẫn
nại chịu đựng nghịch cảnh, cứ thuận ứng hoàn cảnh thì sẽ được an ổn, hạnh
phúc.
Chính trong lúc cơn sốt giảng
độc Khổng Tử đang tiếp tục tăng nhiệt thì cuốn sách Táng gia cẩu: Tôi đọc “Luận ngữ” được xuất bản, tác giả Lý Linh,
giáo sư trường Đại học Bắc Kinh, đã dựa trên những khảo cứu công phu tiến hành
nghi thức “trừ tà” trả lại một đức Thánh Khổng nguyên bản. Trong Lời tựa, ông đã nói về thái độ của mình
khi đọc Luận ngữ:
“Sách của tôi được viết từ nhãn quang của riêng tôi, không
phải là sản phẩm ăn theo nói leo người khác. Tôi không quan tâm đến cái
gì mà Nhị thánh nhân với Tam thánh nhân, tôi cũng không quan tâm cái gì
mà “đại sư” với “tiểu sư”[iv],
chỉ cần không đúng với sách gốc, xin lỗi, đại khái tôi sẽ không tiếp nhận.
Tôi đọc Luận ngữ là đọc nguyên bản.
Tư tưởng của Khổng Tử như thế nào xin hãy đọc nguyên bản. Tất cả các kết luận của
tôi là dùng chính lời của Khổng Tử để nói, không phải để gây lộn với trí thức,
cũng không đưa lại sự a dua cho quần chúng nhân dân. Đọc sách của Khổng Tử
không nên tán tụng, cũng không nên quăng bỏ, nói một cách thích đáng, ông ấy
chính là Don Quixote”.
Chính vì xuất phát từ thái độ
cầu thực không sùng Thánh, không mị quần chúng như thế nên Lý Linh mới có thể
phá vỡ được truyền thống sùng Thánh tôn Khổng kéo dài hơn 2000 năm. Ông nói:
“Trong
cuốn sách này, tôi muốn nói với mọi người, Khổng Tử không phải là Thánh nhân.
Khổng Tử được đế vương các đời tán dương phong hiệu không phải là Khổng Tử đích
thực, chỉ là “Khổng Tử nhân tạo”. Khổng Tử đích thực, Khổng Tử sống động, không
phải Thánh cũng chẳng phải Vương, căn bản chẳng liên quan gì đến cái gọi là “Nội
Thánh ngoại Vương”. Khổng Tử không phải Thánh, chỉ là con người: là một người
xuất thân thấp kém lại lấy quý tộc cổ đại (những “chân quân tử”) làm tiêu chuẩn
lập thân; một người hiếu cổ cần mẫn, học không biết chán, dạy người không biết
mệt mỏi; một người truyền đạt cổ văn hóa, giảng dạy kinh điển; một người có
đạo đức học vấn nhưng vô quyền vô thế lại dám phê bình tầng lớp quyền quý đương
thời; một người du thuyết bốn phương, lao tâm hộ đám cầm quyền, liều mình
khuyên họ cải tà quy chính; một người nhiệt tâm hiếu nghĩa, nuôi mộng tưởng
khôi phục lại trật tự xã hội thời Chu Công, định an bách tính thiên hạ. Ông ấy
vừa hoảng hốt, vừa hoang mang, khô môi rã họng, thất thểu lang thang, chẳng
khác nào một con chó lưu lạc không có nhà để quay về. Đó mới là chân tướng của
Khổng Tử”.
Trình độ giải đọc Luận ngữ của Lý Linh, bất kể là ở góc độ
khảo chứng hay thích nghĩa, vượt xa cách đọc tùy tiện nông cạn của Vu Đan. Quan
trọng hơn nữa, Lý Linh với tư cách là một phần tử trí thức đương đại đã lý giải
một cách ôn hòa với khá nhiều đồng cảm về Khổng Tử- một phần tử trí thức hơn
2000 năm trước. Ông nói: “Khổng Tử thừa nhận mình là “táng gia cẩu”, bởi vì:
“Khổng Tử tuyệt vọng với tổ quốc mình,
thán nỗi phải dắt díu tha hương viễn xứ, nhưng đi khắp lượt chư hầu,
không thu hoạch được một chút gì, cuối cùng lại quay trở về nơi chôn
rau cắt rốn. Những năm cuối đời của ông, đau thương liên miên. Con mất, điềm
lân bị bắt, Nhan Hồi mất, Trọng Do tử trận, khiến cho ông khóc khô
nước mắt. Ông chết trong nhà mình, nhưng ông lại không có nhà. Cho dù suy
nghĩ của ông đúng hay sai, nhưng từ bản thân ông, tôi nhận ra số phận
của người trí thức”.
Luận thuyết “táng gia cẩu”
(chó mất nhà, chó không nhà) của Lý Linh giống như ném một hòn đá tảng vào giữa
“cơn sốt Khổng Tử” và “cơn sốt Quốc học”, châm ngòi kích động đám
sĩ nhân hộ đạo Nho gia, nước bọt bủa vây phun ra lai láng, thậm chí
không thiếu cả những lời chửi rủa tức tối; có kẻ mắng nhiếc ông là
“phẫn thanh”; có kẻ phán định ông
là “Mạt thế luận” (Eschatology); có kẻ thậm chí còn chưa đọc qua
sách của Lý Linh đã bài xích là “rác rưởi”. Sở dĩ như thế chỉ bởi
vì Lý Linh đã đặt tên cuốn sách “đọc Luận
ngữ” là “táng gia cẩu” (chó không nhà). Từ đó có thể thấy, tình
trạng sùng bái Khổng Tử của các vị Tân Nho gia Trung Quốc đã đạt
tới mức độ không được phép đụng tới “đức Thánh Khổng”. May mà mấy
vị Nho gia đương đại kia trong tay không có nhiều quyền lực chính trị.
Nếu mà có, đại khái đã phải quay trở lại thời đại “Câu câu là chân
lý, một câu hơn đứt vạn câu”[v].
Lý Linh là một nhà sử
học nghiêm túc, ông đọc Luận ngữ
không phải đọc sách Thánh hiền mà là để nghiên cứu lịch sử. Khổng
Tử mà ông khảo chứng được, không phải thánh nhân, mà là một phần tử
trí thức không tìm được nơi thuộc về mình. Giống như ông đã nói: “Tôi
dùng Luận ngữ để nghiên cứu
lịch sử chứ không phải xem nó như một thứ công cụ để sùng bái” . Kỳ thực, thuyết “táng
gia cẩu” (chó mất nhà) của Lý Linh, chẳng qua trả lại nguyên vẹn
trạng thái hoang mang không tìm được đất dụng võ của trí thức thời
Xuân Thu. Lý Linh giải thích “táng gia cẩu” (chó mất nhà) thành “lưu
lãng cẩu” (chó lưu lạc, chó lang thang) , bất cứ ai ôm hoài bão lý
tưởng nhưng trong thế giới thực lại không tìm được “nơi ký thác tinh
thần” đều là “táng gia cẩu”. Mà theo tôi thấy dùng cụm “đánh mất nơi
ký thác tinh thần” để bình luận đánh giá là đã quá coi trọng Khổng
Tử. Trên thực tế Khổng Tử chu du liệt quốc, không phải để tìm “nơi
ký thác tinh thần” mà là để tìm kiếm nơi ký thác quyền lực. Mong
muốn duy nhất của ông là được làm thầy của các bậc đế vương đã không
thành, đó chính là “táng gia cẩu” không tìm được quyền lực thuộc về
mình. Giả dụ như lúc bấy giờ ông ta có thể tìm được một bậc đế
vương trọng dụng mình thì ông ta sớm đã biến thành “chó giữ nhà”
cho quyền lực.
Người phát minh ra thuật
ngữ “táng gia cẩu” không phải là Lý Linh, mà là bình luận đánh giá
của cổ nhân đối với Khổng Tử. Bản thân Khổng Tử cũng đồng ý với
sự đánh giá này. Khổng Tử chu du liệt quốc “chạy quan”, thất thểu
lang thang 14 năm không thu hoạch được mảy may gì, ông ta trong lúc thất
vọng cùng cực đã bi phẫn cảm khái: “Đạo ta cùng rồi!” “Thiên hạ
chẳng còn chỗ nào có thể dung ta nữa”, cho nên mới có lời bình luận
đánh giá của người đời sau là “rầu rĩ như chó không nhà”. Nhưng từ
góc nhìn của đám sĩ nhân hộ đạo, Khổng Tử tự xưng “táng gia cẩu” là
di huấn của Thánh nhân, bao hàm ý nghĩa tinh tế sâu xa về việc trồng
người và trị quốc; còn Lý Linh gọi Khổng Từ “táng gia cẩu” là đại
nghịch bất đạo, là thứ “rác rưởi” không đáng để đọc. Thậm chí có
vị “phẫn Nho” còn thét thẳng: “Lý Linh điên rồi!”!
Cho dù các vị Nho gia
đương đại sùng Thánh tôn Khổng khinh bỉ “táng gia cẩu” của Lý Linh đến
thế nào, nhưng với tôi, Khổng Tử mà Lý Linh giải đọc, đặc biệt là những
gì viết trong Lời nói đầu chất
phác mà đặc sắc, đã vượt qua mọi lời nói về Khổng Tử của mấy vị
Tân Nho gia như Tưởng Khánh. Cho nên nhiều học giả nổi tiếng đánh giá
rất cao về “Táng gia cẩu”.
Nhà sử học Ngô Tư trong
bài Khả năng tính (Feasibility) của Nhân, Nghĩa-Điểm bình “Táng
gia cẩu- tôi đọc Luận ngữ” viết: “Tôi cảm thấy Lý Linh đã làm một
việc rất hay. Cho dù sau này chúng ta kiến thiết văn hóa như thế nào đều
cần phải dựa vào văn bản chân thực đáng tin cậy. Văn bản này của Lý
Linh tôi thấy lợi hại hơn cả Chu Hy”.
Tiên sinh Tiền Lý Quần
giáo sư khoa Trung văn trường Bắc Đại viết trong bài Đối đãi như thế nào với truyền thống từ Khổng Tử đến Lỗ
Tấn- Đọc“Táng gia cẩu-tôi đọc Luận ngữ”của Lý Linh: “Theo tôi, tâm
thái và phương pháp nghiên cứu “dĩ tâm hiệt tâm” (lấy lòng mình đo lòng người-đạo hiệt củ của Nho gia-ND) và nhãn quãn “ngang
tầm” như thế của Lý Linh là một đặc điểm lớn, đồng thời cũng là
một cống hiến lớn trong cách đọc Luận
ngữ của ông. Kết quả “dĩ tâm hiệt tâm” của Lý Linh là đã phát
hiện được “táng gia cẩu” Khổng Tử….Tôi đọc thấy trong cụm từ này cảm
giác như có một chút “chế nhạo” nhưng bên trong lại cũng có một thứ
chấp trứ, một thứ bi thương”.
Tiên sinh Lưu Mộng Khê,
giám đốc trung tâm nghiên cứu văn hóa Trung Quốc thuộc Viện nghiên cứu
nghệ thuật Trung Quốc, trong một cuộc phỏng vấn, đã ca ngợi sự nghiêm
túc, công phu khảo chứng học, cũng như tinh thần phê phán và “giải
thiêng” thần thánh của Lý Linh trong cách đọc Luận ngữ.
Giáo sư Tần Huy của đại
học Thanh Hoa, trong bài báo “Luận
ngữ” trở thành kinh điển như thế nào? in trên Phương Nam cuối tuần (số ra ngày 12-7-2007) đã viết: “Ngày
nay, có nhiều người đã nâng cao Luận
ngữ đến mức gần như là “Thánh Kinh Nho gia”, hệt như trước kia xem Mao Trạch Đông ngữ lục là “đỉnh
cao” của chủ nghĩa Marx. “Cơn sốt Luận ngữ” ngày nay đối với Nho gia,
và “cơn sốt ngữ lục” trước kia đối với chủ nghĩa Marx, rốt cục là
hoằng dương hay là chà đạp?” .
Ở một đất nước có truyền
thống sùng Thánh lâu đời như Trung Quốc, Khổng Tử trong mắt những sĩ
nhân hộ đạo là một vị Thánh nhân không cần nghi ngờ, là bậc “tôn sư”
của đế vương các triều đại, là đức “Tố Vương” có vị trí chí tôn
trong đạo thống, là vị “Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương” mà các
hoàng đế dập đầu bái lạy, là vị “Thần” mà Khang Hữu Vi và Khổng
giáo hội tôn là “Giáo Chủ”, ngày nay lại được các vị Tân Nho xem là
“tiêu chí” của văn hóa Trung Quốc. Mỗi câu Khổng Tử nói đều được xem
là châm ngôn trị quốc tỉnh thế, là hướng đạo của tu thân dưỡng tính.
Trong các thuyết pháp khoa trương nhất, cổ thì có thuyết “nửa bộ Luận ngữ trị thiên hạ”, ngày nay
thì có luận thuyết: “Khổng Tử thượng quản 5000 năm, hạ quản 5000 năm”,
lại còn có cả thuyết “Không đọc Luận ngữ, không lấy gì để làm
người”. Nho gia đương đại không tiếc sức bịa đặt những tin tức giả giật
gân, hơn nữa lại là tin tức giả danh những người phương Tây rất có tự
trọng: Năm 1988, 75 người được giải Nobel các nước đã tụ hội tại
Paris, cùng bầu chọn Khổng Tử là nhà tư tưởng số 1 thế giới. Đứng
trước những người sùng bái Thánh đến tẩu hỏa nhập ma, thứ lỗi cho
tôi khi nói một câu thô lậu như thế này với các vị Nho gia đương đại:
Trong mắt của các ông, Khổng Tử nếu đã là Thánh vậy thì đến xì hơi
cũng thơm tho, cũng ngây ngất. Những người sùng Thánh đã mê man đến
độ không phân biệt nổi những lời nói sinh hoạt thường ngày với những
lời “vi ngôn đại nghĩa”, đem những lời nói thường ngày trong Luận ngữ đọc thành những lời vi
diệu sâu sắc. Ví dụ như thiên mở đầu trong sách Luận ngữ: Học nhi thời
tập chi bất diệc duyệt hồ; hữu bằng tự viễn phương lai bất diệc lạc
hồ…?”, những lời nói bình thường như thế có gì vi diệu sâu sắc,
mắc mớ gì mà phải lãng phí bao nhiêu là trí tuệ chú thích hơn 2000
năm, đến nay vẫn còn đang chú thích? Giống như Chu Tác Nhân trong cuốn Luận ngữ tiểu ký đã viết: “Những
gì được nói trong Luận ngữ phần
lớn là đạo lý tác nhân xử thế, ….có thể làm gương cho hậu nhân, nhưng không thể
làm tín điều thiên kinh địa nghĩa, lại càng không có ý nghĩa tinh
túy gì về triết học chính trị để có thể trị quốc bình thiên hạ”. Hegel, nhà
triết học lớn người Đức cũng cho rằng Luận ngữ chẳng qua chỉ là đạo lý mang tính sinh hoạt
thường ngày mà thôi.
Nếu như nói, mệnh vận
của Khổng Tử thời Xuân Thu Chiến Quốc giống như “chó không nhà” không
tìm thấy được sự ưu đãi trọng thị từ tầng lớp quyền lực, vậy thì
sau khi Hán Vũ Đế khâm định “Độc
tôn Nho thuật”, anh ba Khổng (Khổng lão nhị) biến thành đức phu tử
Khổng, “chó không nhà” di thai hoán cốt thành “chó giữ nhà” bảo vệ
cho chế độ độc tài hoàng quyền. Vì Nho thuật có lợi cho sự thống
trị hoàng quyền, nên địa vị “chó giữ nhà” xem như tương đối vững
chắc, ngồi một cái là ngồi luôn hơn 2000 năm. Nhưng khi thần tượng của
trí thức được quan quyền tung hô lên đến tận mây xanh, thậm chí biến
thành tượng dát vàng trong tổ miếu hoàng gia, thì vừa vặn cũng là
lúc người trí thức và tư tưởng của họ sa vào địa ngục, biến thành
“tỳ nữ” cho quyền lực. Giống như Tư Mã Thiên sau khi bị Hán Vũ Đế xử
cung hình đã bi phẫn mà thốt lên rằng: “Phụ thân ta không có được công
lao nhận “phẫu phù đan thư”[vii]
(những tín vật miễn tội), chép sử xem thiên văn (những nhiệm vụ do
Thái Sử Lệnh chuyên trách) gần với chiêm bốc tế lễ (những nhiệm vụ
do Vu quan chuyên trách), cho nên chúa thượng bỡn cợt, nuôi như nuôi con
hát, bị thế tục khinh thường”. Cho đến khi các cường quốc phương Tây
gõ cửa Trung Quốc, chế độ và hình thái ý thức truyền thống mới suy
yếu nhanh chóng. Cách mạng Tân Hợi đã làm lễ cáo chung cho đế chế truyền
thống, Nho gia với tư cách là hình thái ý thức độc tôn của hoàng
quyền cũng mất đi chỗ dựa vào chế độ, một lần nữa từ “chó giữ nhà” trở về thành “chó không nhà”. Cho dù, cũng từng có thêm vở
kịch khôi phục đế chế và tôn Khổng của Viên Thế Khải, nhưng chẳng qua
cũng chỉ là hài kịch như khói thoảng qua, bởi vì sự sụp đổ của
chế độ và hình thái ý thức truyền thống đã đến hồi không thể nào
cứu vãn.
Theo tôi, mất đi chỗ dựa
quyền lực, là đại bất hạnh của Nho gia truyền thống, khiến chó
giữ nhà cho hoàng quyền biến thành chó lưu lạc lang thang. Nhưng trong
quá trình chuyển hình từ trí thức truyền thống sang trí thức hiện
đại- trí thức Trung Quốc từ “chó giữ nhà” một lần nữa biến thành
“chó không nhà”- lại là đại hạnh cho giới trí thức Trung Quốc. Bởi
vì trí thức không còn dựa vào sự chống lưng của quyền lực độc tài
nữa, thì dù bất kể là tự nguyện hay ép buộc, tinh thần phê phán càng
dễ dàng được nuôi dưỡng độc lập hơn. Di hạn ở chỗ, số phận “chó
lang thang” của trí thức Trung Quốc cũng chỉ duy trì vẻn vẹn được
nửa thế kỷ, cùng với việc Trung cộng tập trung quyền lực thống trị
khắp Trung Quốc thì trí thức Trung Quốc đến “chó lang thang” cũng
không bằng. Phần lớn thì lâm vào thế như “chó rơi xuống nước” bị đuổi
đánh dồn dập, một số ít may mắn biến thành “chó giữ nhà” cho
chính quyền Mao Trạch Đông. Ví dụ như Quách Mạt Nhược thời kỳ dân
quốc còn dám mắng cả Tưởng Giới Thạch nhưng sau 1949 lại biến thành
kẻ phụ họa cho Mao Trạch Đông.
Ở thời hiện đại và đương
đại Trung Quốc, Khổng Tử có một mệnh vận tương đối kỳ dị, trước sau
trải qua hai cuộc vận động “đánh đổ miếu họ Khổng”; một lần là
cuộc vận động Tân văn hóa thời Ngũ Tứ, một lần là cuộc “phê Lâm phê
Khổng” do Mao Trach Đông phát động. Sau sự kiện Thiên An Môn, trong giới
tri thức Trung Quốc xuất hiện trào lưu tư tưởng chống lại chủ nghĩa
cấp tiến, xếp phản truyền thống của vận động Ngữ tứ với phản
truyền thống của Mao Trạch Đông vào chung một nồi, cho rằng đồng dạng
đều là cách mạng của chủ nghĩa cấp tiến nên tiến hành bài trừ, mà
tuyệt nhiên không để ý tới sự khác nhau hoàn toàn của hai lần “đánh
đổ miếu họ Khổng”.
Đầu tiên, những người
phát động của hai phong trào chống Khổng là không giống nhau. Cuộc
vận động Ngũ Tứ là cuộc vận động văn hóa dân gian từ dưới lên trên, những
người phát động đều là những phần tử trí thức kiểu mới đến từ
tầng lớp bình dân, họ tiếp thu những tư tưởng mới, giá trị mới và
phương pháp mới từ phương Tây, đồng thời dùng những giá trị của
Phương Tây làm tham chiếu để nghiên cứu thảo luận nguyên nhân lạc hậu
của Trung Quốc. Họ không thỏa mãn với quan điểm “khí vật không bằng
người” của phái Dương vụ[viii]
và “chế độ không bằng người” của phái Duy Tân mà đi sâu thảo luận
vào tầng diện “văn hóa không bằng người”. Còn phong trào “phê Lâm phê
Khổng” giai đoạn cách mạng văn hóa là cuộc vận động chính trị từ
trên xuống dưới do quyền lực độc tài thao túng và khống chế, người
phát động là Mao Trạch Đông không chỉ nắm giữ quyền lực tuyệt đối
mà địa vị độc tôn của “tư tưởng Mao Trạch Đông” lúc đó cũng thay thế
tất cả mọi tư tưởng khác bất kể là đến từ bên ngoài hay vốn có
của Trung Quốc.
Thứ hai, tính chất của
hai lần chống Khổng cũng hoàn toàn khác nhau. Cuộc cách mạng văn hóa
phát động “đánh đổ miếu họ Khổng” của những trí thức kiểu mới thế
hệ thứ nhất thời Ngũ Tứ, không chĩa mũi nhọn vào Khổng Tử thời
“trăm nhà đua tiếng” Tiên Tần mà là đức Thánh Khổng được dựng lên từ
thời đại “độc tôn Nho thuật” của Hán Vũ Đế trở lại đây, mục đích
là đánh đổ thứ “Nho thuật” làm “chó giữ nhà” cho hoàng quyền độc
tài. Còn cuộc vận động phê Khổng do Mao Trạch Đông phát động không có
bất cứ một động cơ văn hóa hoặc động cơ trừ bỏ cái cũ mưu toan cái
mới, mà hoàn toàn dựa trên nhu cầu chính trị bảo hộ quyền lực tự
thân. Ông ta dùng “phê Khổng” như công cụ chính trị cho cuộc tranh giành
quyền lực trong nội bộ Đảng, vừa để “phê xấu” Lâm Bưu, vừa để cảnh
cáo “đại Nho trong Đảng” Chu Ân Lai.
Như thế có thể nói, hai
lần đả phá miếu họ Khổng có sự khác biệt về tính chất: đó là sự
khác biệt giữa những người trí thức kiểu mới không có quyền lực
với Tần Thủy Hoàng đương đại trong tay nắm giữ quyền lực tuyệt đối;
đó là sự khác biệt giữa một cuộc vận động văn hóa tự phát với
một cuộc vận động chính trị thao túng khống chế quyền lực; đó là
sự khác biệt giữa một bên vì Trung Quốc già nua mà tìm lối thoát
cho văn hóa và một bên vì củng cố quyền lực tuyệt đối mà thanh
trừng những ý kiến khác mình.
Vì thế, đến tận bây giờ
tôi vẫn tán thành “đánh đổ miếu họ Khổng” như là một cuộc vận động
văn hóa tự phát thời Ngũ Tứ , nhưng
tôi lại kiên quyết phản đối “đánh đổ miếu họ Khổng” với tư cách là
một cuộc vận động chính trị giai đoạn đại cách mạng văn hóa.
Trong bài viết Khổng Phu Tử của Trung Quốc hiện đại,
Lỗ Tấn gọi Khổng Tử là “Thánh nhân modern”, cũng chính là phê phán
truyền thống sùng Thánh của đế chế Trung Quốc. Ông viết: “Khổng Tử
tại Trung Quốc, là do đám quyền thế dựng lên, là Thánh nhân của đám
quyền thế hoặc đám muốn có quyền thế, chẳng có quan hệ gì với dân
chúng nói chung”. Mà theo tôi, truyền thống sùng Thánh của Trung Quốc
là công trình giả tạo văn hóa lớn nhất do đế vương các đời và đám
văn nhân “ngự dụng” cùng tham gia chế tạo. Khổng Tử được đế vương và
đại Nho các đời “phong Thánh” sớm đã viễn ly với Khổng Tử đích
thực, xứng đáng được xem là món hàng nhái kém chất lượng nhất.
Kỳ thực, nghiêm túc đọc
chư tử thời Tiên Tần có thể nhận thấy, Khổng Tử người được tôn là
Thánh nhân, thực ra là một nhà thuyết giáo đạo đức xoàng nhất trong
các chư tử Tiên Tần. So với Trang Tử, Khổng Tử không có sự lai láng
phóng túng trong ngôn ngữ, không có chất siêu dật, bay bổng, tiêu sái
và chất kỳ vĩ khôi lệ trong năng lực tưởng tượng, không có trí tuệ
triết học thoát tục và tài hoa văn học hiển lộ, càng không có ý
thức thanh tỉnh về bi kịch của con người. So với Mạnh Tử, Khổng Tử
thiếu hẳn khí phách, thái độ khoáng đạt, lòng bao dung của một vị
nam tử hán, càng thiếu mất sự tự tôn khi đứng trước giới quyền lực,
thiếu mất sự quan tâm lo lắng với tầng lớp bình dân “dân vi trọng, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. So với Hàn Phi
Tử, Khổng Tử hư ngụy, xảo trá không có được sự thẳng thắn, sắc sảo
và tài năng trào lộng của Hàn Phi Tử. So với Mặc Tử, Khổng Tử
không có sự tự ước thúc đạo đức của chủ nghĩa dân túy xem bình
đẳng là lý tưởng, không có đầu óc mang đặc trưng logic hình thức.
Tất cả những gì Khổng Tử nói đều thiếu vắng một trí tuệ lớn, chỉ
có sự tinh vặt, công lợi cực đoan và khôn khéo, đã không có được linh
tính thẩm mỹ và sự sâu sắc trong triết lý lại cũng không có được
nhân cách cao quý và tấm lòng khoáng đạt. Ông ta, trước tiên tứ phía
“chạy quan”, sau khi thất bại thì trở thành một vị giáo chủ đạo
đức, cái được nhất của ông ta là “làm Thầy người” và đạo làm Thầy
“dạy người không mệt mỏi” cũng vừa vặn chính là nguyên nhân tạo nên nhân
cách cuồng vọng mà nông cạn. Đạo xử thế thông minh của ông ta “thịnh
thế tắc nhập, loạn thế tắc ẩn” là điển hình cho chủ nghĩa cơ hội
không muốn gánh trách nhiệm. Đáng buồn là, chính vị Khổng Tử khôn
khéo nhất, công lợi nhất, lõi đời nhất, không có tinh thần đảm đương
và gánh vác khó khăn nhất lại trở thành vị Thánh nhân và hình mẫu
mấy nghìn năm của dân tộc Trung Hoa. Dân tộc nào thì có Thánh nhân
nấy, và Thánh nhân như thế nào cũng sẽ chỉ có thể đắp nặn nên một
dân tộc như thế ấy, “nô tính” của toàn bộ người Trung Quốc đều bắt
nguồn từ chỗ đó, di truyền từ nền văn hóa đó vẫn kéo dài cho đến
tận ngày nay.
Ý nghĩa đích thực trong
việc đọc Luận ngữ của Lý Linh, thứ
nhất là: chĩa mũi nhọn vào nơi phát động chủ nghĩa dân tộc cực đoan
Trung Quốc hiện nay. Sách này tuy là một trước tác học thuật nghiêm
túc muốn hoàn nguyên một “Khổng Tử đích thực”, lột bỏ lớp da “thánh
hiền hư ảo” mà Nho gia các đời đã đắp lên cho Khổng Tử, nhưng rõ
ràng có sự quan tâm đến hiện thực. Ông trực tiếp hoài nghi chất vấn “cơn
sốt giảng đọc kinh điển”, “cơn sốt tôn Khổng”, gián tiếp hoài nghi chất
vấn cái gọi là “đại quốc quật khởi”. Trong mắt Lý Linh, Khổng Tử
chỉ là “chó không nhà” không tìm được nơi ký thác tinh thần trong thế
giới hiện thực”, cũng chính là phê phán Nho gia đương đại biến Khổng
Tử thành chúa cứu thế. Đúng như chính Lý Linh đã nói: “Đem cờ Khổng Tử cắm khắp thế
giới, tôi không hứng thú”. “Khổng Tử không thể cứu Trung Quốc cũng
không thể cứu thế giới”.
Hai là, chĩa mũi nhọn
vào truyền thống luôn muốn thân cận với giới quyền lực của trí thức
Trung Quốc, bởi vì hiện tại Nho gia cũng đang sốt sắng làm thân với
đám đương chức đương quyền. Họ độc tôn Nho học, hô hào Nho giáo, nhưng
không chú trọng đến tác dụng của Nho học trong việc kiến tạo lại
đạo đức con người mà chỉ chú trọng đến chức năng chính trị “tu tề
trị bình” của Nho gia, mục đích muốn thực hiện “vương đạo” “chính
giáo hợp nhất”[ix].
Họ đẩy Khổng Tử lên địa vị “Thầy của đế vương” hoặc “Quốc sư”, hô
hào định vị Nho giáo là “quốc giáo”, hy vọng chính phủ dùng quyền
lực hành chính “đặc biệt đãi ngộ” Khổng Tử, tiến tới biến thành “vua triết
học” trong tay nắm quyền lực lớn theo mô thức Plato. Cho nên Khổng Tử do Tân
Nho gia “trùng tu” là thụt lùi so với thời đại Hán Vũ Đế, tham vọng
một lần nữa “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật” là ý thức hình
thức hóa Khổng Tử một cách cao độ, là làm sống lại truyền thống “nhân
cách Thần” đưa người sống lên làm Thần thánh để sùng bái.
Lý Linh cho rằng, trong
lịch sử Trung Quốc, những trí thức dạt dào lý tưởng Utopia chỉ nên
có bổn phận là lực lượng phê phán độc lập với quyền lực, còn một
khi trí thức đã nắm quyền lực sẽ là mối nguy hiểm đối với quốc
gia, thậm chí là mối nguy hiểm mang tính tai họa. Lý Linh nói: “Trí
thức nhạy bén sắc sảo nên càng chuyên chế hơn các đối tượng khác.
Nếu như trong tay có quyền lực, thì những kẻ mất mạng trước tiên,
chính là những trí thức khác”. Bởi vì trí thức Trung Quốc phần lớn
đều rất cuồng vọng, tự cho mình “có trí tuệ nhất”, “có đạo đức
nhất”, có lý tưởng nhất”, tự hứa rằng: “trước tiên lo cái lo của thiên
hạ, rồi sau mới vui cái vui của thiên hạ”, có thể cứu vớt được bách
tính trong dầu sôi lửa bỏng, tạo dựng nên một thiên đường trong chốn
nhân gian. Bốn câu của Trương Tái, vị đại Nho đời Tống: “Vị
thiên hạ lập tâm, vị sinh dân lập mệnh, vị vãng Thánh kế tuyệt học,
vị vãng thế khai thái bình”, đến nay vẫn được phần lớn các
trí thức Trung Quốc xem như châm ngôn răn mình, chứng tỏ truyền thống
cuồng vọng của sĩ đại phu Trung Quốc vẫn còn rất thâm căn cố đế.
Chính vì thế, Lý Linh
cảnh tỉnh trí thức đương đại Trung Quốc nên hấp thu sự giáo huấn của
lịch sử, cần giữ khoảng cách với quyền lực, trừ bỏ dã tâm “làm
Thầy các bậc đế vương”, vứt bỏ truyền thống dùng kinh điển cổ đại tiến
hành chính trị hóa và hình thức hóa ý thức, duy trì tính độc lập
về tri thức, tư tưởng và học thuật, kích thích sức sáng tạo tinh
thần của trí thức. Giống như Lý Linh viết trong đoạn cuối Lời nói đầu: “Đọc Luận ngữ cần ôn hòa bình tĩnh, bỏ chính
trị hóa, bỏ đạo đức hóa, bỏ tôn giáo hóa. Mục đích không gì khác
ngoài việc chúng ta muốn một Khổng Tử đích thực, đặc biệt là trong
thế giới lễ hoại nhạc băng này”. Nếu không, người trí thức Trung Quốc
hôm nay vẫn mãi giống như trí thức Trung Quốc trong lịch sử không cách
nào trút bỏ được vận mệnh cam tâm làm “chó săn” cho người khác. Chỉ
khác biệt ở chỗ, khi không có ai tán thưởng thì như “chó không nhà”,
nhận được sự ưu ái thì như “chó giữ nhà” trúng số.
Theo tôi, bi kịch lớn nhất
của văn hóa Trung Quốc không phải là “đốt sách chôn Nho” thời Tần
Thủy Hoàng mà là “bãi truất bách gia độc tôn Nho thuật” thời Hán Vũ Đế,
học thuyết Nho gia trải qua sự cải tạo của Đổng Trọng Thư, miêu tả trật
tự đế chế được kiến lập và duy trì dựa trên bạo lực như sự thể hiện
của thiên đạo, dùng câu “thiên bất biến đạo diệc bất biến” như căn cứ
bản thể luận mang tính hợp pháp của đế chế, cung cấp bằng chứng vũ
trụ luận cho sự tồn tại vĩnh viễn của hoàng quyền, khoác lên hình
hài lồ lộ chính trị bạo lực một tấm áo khoác nhân trị vỗ về. Các
đấng đế vương đương nhiên nhận ra tác dụng dụ dỗ của tấm áo khoác
này, bèn xác lập Nho giáo thành hình thái ý thức quan phương độc
tôn, trở thành dòng “đạo thống” an thân lập mệnh chủ lưu cho người trí
thức, cũng chính là truyền thống “làm thế nào để biến thành nô tài
tốt”. Đúng như Mao Trạch Đông đã định vị người trí thức: “da đã
chẳng còn, lông mọc ở đâu?”.
Trí thức đương đại Trung
Quốc, trách nhiệm đầu tiên không phải là bảo vệ truyền thống sùng
Thánh dựa trên sự chống lưng của quyền lực độc tài, mà là bãi bỏ
địa vị “ngự dụng” (tay sai) phụ thuộc vào quyền lực, kế thừa truyền
thống mới “tư tưởng tự do, nhân cách độc lập” xác lập từ thời Ngũ
Tứ đến nay.
Bắc Kinh, ngày 18 tháng 8 năm 2007
Lưu Hiểu Ba.
[i] Đạo
thống: chỉ dòng mạch và hệ thống truyền thừa “đạo” của Nho gia. Mặc
dù Chu Tử là người đầu tiên dùng chữ “đạo thống”, nhưng người chính
thức xác lập một đạo thống hoàn chỉnh lại là Hàn Dũ. Trong bài Nguyên đạo, Hàn Dũ viết: “Nghiêu đem
nó [đạo] truyền cho Thuấn, Thuấn đem nó truyền cho Vũ, Vũ đem nó
truyền cho Thang, Thang đem nó truyền cho Chu Công, Chu Công truyền cho
Khổng Tử, Khổng Tử truyền cho Mạnh Tử. Sau khi Mạnh Tử mất, đạo ấy
không được truyền nữa”.
[ii]
Chỉ sự kiện Thiên An Môn, diễn ra vào
đêm ngày 3 và rạng sáng ngày mùng 4 tháng 6 năm 1989.
[iii] Tiểu khang: Là một thuật ngữ chỉ thời thịnh
trị, dân no ấm an lạc của Nho gia như thời Vũ, Thang, Chu Văn Vương, Chu
Vũ Vương, Chu Thành Vương…., nhưng vẫn đứng dưới xã hội Đại Đồng một bậc. “Tiểu khang”
cũng là từ được Đặng Tiểu Bình dùng trong học thuyết của ông, chỉ sự
phát triển kinh tế chủ nghĩa xã hội, trong thời kỳ đặc định đạt
được mục tiêu đề ra.
[iv] Nhị Thánh Nhân, Tam Thánh Nhân, Đại sư: những từ mà Nho gia các
đời dùng để xưng tụng Khổng Tử
[v]
Câu trích trong bài viết của Lâm Bưu đăng trên Nhân dân Nhật báo số ra
ngày 24/1/1966 tụng ca Mao Trạch Đông ngữ lục.
[vii]
Phẫu phù đan thư: Những tín vật làm bằng mà các hoàng đế nhà Hán
ban cho công thần. Phù: làm bằng trúc trên có ghi lời thề “mãi mãi
không thay đổi tước vị”. Phẫu chia thành hai: hoàng đế giữ một mảnh,
công thần giữ một mảnh. Đan thư: giống một dạng khế ước viết những
lời thề bằng chu sa. Vị công thần nào có được những tín vật này có
thể được miễn tội. Cha của Tư Mã Thiên chỉ làm một chức quan rất
nhỏ nên ông không được miễn tội, phải chịu nhục cung hình.
[viii]
Phái Dương vụ: Một phe phái chính trị trong nội bộ giai cấp thống
trị Trung Quốc xuất hiện sau cuộc chiến tranh Nha phiến với mục đích
cứu vớt vương triều nhà Thanh, bảo vệ giai cấp địa chủ, đi theo con
đường “thực nghiệp hưng quốc”. Một số tên tuổi của phái chính trị
này có: Tăng Quốc Phiên, Lý Hồng Chương…..
[ix] Người
đứng đầu về chính trị cũng chính là lãnh tụ tôn giáo.