Friday, January 30, 2015

Một ghi chú về lịch sử in ấn Việt Nam: in "hoạt tự" dưới thời Tự Đức

1. Trong công trình中国印刷术在越南的传播及其影响 nhà nghiên cứu Trung Quốc Trương Tú Dân có nhắc đến một chi tiết rất quan trọng: Đó là chữ in rời đã xuất hiện ở Việt Nam, và văn bản sớm nhất được biết in hoạt tự là "Truyền kỳ mạn lục" dưới triều Lê Vĩnh Thịnh năm thứ 8. Trương Tú Dân cũng nói rằng dưới triều vua Thiệu Trị đã đặt mua bản in hoạt tự bằng gỗ ở Trung Quốc mang về Việt Nam. Nhưng trong Đại Nam thực lục triều vua Thiệu Trị thì không thấy ghi chép gì về chuyện này. 
2. Chắc chắn là có bản in hoạt tự (bằng thiếc) dưới triều vua Tự Đức, không phải là triều đình đặt mua mà là thu giữ của thương nhân người Thanh. Những ghi chép này có thể tìm thấy trong Đại Nam thực lục" (tập 7, tiếng Việt, chắc thế. Bản chữ Hán là "Đại Nam thực lục chính biên đệ tứ kỉ" )

Bính Thìn, Tự Đức năm thứ 9 [1856]

Lệnh đưa bàn in chữ xếp bằng thiếc trắng do thuyền của người nước Thanh chở đến nộp, giao cho sở chứa ván in ở Quốc sử quán coi giữ. Lại sai chọn phái các cử nhân, giám sinh ở Giám sung việc kiểm làm và những người thợ khắc bàn in hiện có mặt ở đấy theo cùng. Dự Hiệp Ký (người chủ có chữ xếp bản ấy) chỉ bảo cách thức đem in thử cho được am tường.




Canh Ngọ, Tự Đức năm thứ 23 [1870]

Định lại thể lệ cách 1 năm phái viên kiểm tra chữ thiếc ở cục in sách. Tự Đức năm thứ 9 lệ định mỗi khi đến cuối năm, phái quan khoa đạo hội đồng với nhân viên cục in sách kiểm điểm những mảnh chữ bằng thiếc, làm sổ coi giữ dâng lên, (lệ cũ khi kiểm tra, mỗi 1.000 chữ thiếu từ 1 đến 15 chữ, cứ bọn nhân viên cục ấy phải đúc đền, tha cho xử phân, nếu thiếu từ 16 chữ trở lên, tức phải đúc đền, nhưng tâu xin chờ xử phân). Đến nay quan Sử quán tâu nói : Cục ấy nguyên trước đặt 23 nhân viên, cứ đến hằng năm hội kiểm thường đến 2 - 3 tháng mới xong, từ năm ngoái bỏ bớt đi, chỉ để bát, cửu phẩm mỗi chức 1 người, vị nhập lưu thư lại 4 người, (chia làm 2 ban, 1 ban ở làm việc, 1 ban về nghỉ) mà số mảnh chữ ấy thì nhiều (trong số coi giữ cộng 311.480 mảnh chữ, trong đó : Chữ lớn là 203.745 mảnh ; chữ nhỏ là 107.735 mảnh), nghĩ nên cách 1 năm kiểm điểm 1 lần, nhưng để lại 4 thư lại, chi lương cho làm việc, việc xong, lại chia ban như cũ, hầu khỏi phải phái, lại thành chậm trễ. Vua bảo rằng : “Cách 1 năm cũng được, nhưng để nguyên ty ấy tự điểm và 1 viên khoa đạo sao đủ được, lâu ngày tất mất nhiều”. Bèn sai bộ Lễ nghĩ định, rồi chuẩn cho chọn phái viên dịch định số đến kỳ chiểu lệ thi hành. (Từ nay, phàm cách 1 năm, mỗi đến trung tuần tháng giêng phái kiểm một lần, nhưng do viện Đô sát phái 1 viên khoa đạo ; bộ Lễ và Sử quán phái thuộc viên lục thất phẩm mỗi chức 1 viên, các bộ Lại, Hộ, Binh, Công mỗi bộ chọn phái 1 thư lại, đều đến cục ấy hội đồng sức làm kiểm điểm mảnh chữ ấy và các hiệu sách ván in hiện giữ, cốt trong tháng 2 phải xong, đủ, thiếu thế nào theo như trước cùng ký tên vào tờ tâu lên).


Tiểu thuyết "Thuỷ hử": những chi tiết tưởng tượng phát triển từ dã sử

Chương thứ mười lăm “Dương Chí đảm nhận áp tống kim ngân, Ngô Dụng  Hoàng Nê dùng trí cướp lễ sinh thần” là một đoạn văn vốn có nguồn gốc từ trong sách Tuyên Hoà di sự:
Năm ấy đúng vào tháng 5, năm Tuyên Hoà thứ 2, có viên Lưu thủ Bắc Kinh là Lương Sư Bảo đem mười vạn chuỗi châu ngọc và muời vạn thước lụa quý, sai bọn huyện uý Mã An Quốc đảm trách gấp gáp mang đến kinh sư, kịp ngày mùng một tháng sáu làm lễ thượng thọ Sài thái sư. Bọn Mã huyện uý đi đến con đê Thượng Điền ở trại Ngũ Hoa, thấy ven đường thấp thoáng bóng liễu, tiêu trúc xanh rì, không khỏi đứng lại đó hóng mát một lúc, gặp tám người đàn ông, gánh theo hai thùng rượu, cũng đến  hóng mát ở trên đê. Ngồi nghỉ, Mã huyện uý hỏi một người đàn ông: “Nhà ngươi có bán rượu không ?” Người đàn ông đáp: “Rượu của tôi vị thanh, hương thơm nồng, dùng để giải khát là tốt nhất, mời quan nếm thử vài hớp”. Mã huyện uý vì đang mệt mỏi đói khát đã mua hai bình rượu, lệnh cho  bọn người đi theo đều uống mấy hớp. Khi chưa uống rượu, muôn vật đều rõ ràng, vừa uống rượu xong, liền cảm thấy hoa mắt choáng váng, trông đất trời đảo lộn, tất cả đều ngã lăn ra bất tỉnh nhân sự. Những vật châu báu lụa là trong hòm, tất tật bị tám người đàn ông kia cướp đi mất, chỉ vứt lại hai thùng rượu”(1)              
            Chỉ cần đem đoạn văn này đối chiếu với đoạn văn đọc trong Thuỷ hử, chúng ta nhất định sẽ kinh ngạc thán phục trước năng lực sáng tạo không gì sánh nổi của Thi Nại Am.
            Ở đây, tác giả đã giữ lại  nội dung cơ bản của sự kiện: mười vạn chuỗi châu ngọc dâng Sài thái sư đã bị cướp mất, vì trên đường đi những ngưòi áp tải đã uống phải rượu độc. Trên cơ sở này, tác giả đã tiến hành sáng tạo lại phần lớn các chi tiết thông qua trí tưởng tượng phong phú. 
            Thứ nhất,  thay đổi bối cảnh phát sinh sự kiện. Thời gian từ chỗ tháng 5 xuất phát đến đầu tháng 6 thượng thọ, được đổi lại thành ngày 15 tháng 6 thượng thọ.  Như vậy, câu chuyện xảy ra vào ngày mùng 4 tháng 6, là thời gian tiết trời  nóng nực, rất muốn uống rượu giải khát. Địa điểm cũng được đổi từ đê Thượng Điền ở trại Ngũ Hoa đến sườn núi Hoàng Nê. Đây không phải là một sự thay đổi  thông thường. Đi trên đê, phía dưới có thể có sông, có nước thì thì không nhất định phải uống rượu. “Thấp thoáng bóng liễu, tiêu trúc xanh rì”  không những không phải là cảnh nóng nực, mà còn là đường lớn thông suốt, không tiện cho việc chặn đường cướp của. Sườn núi  Hoàng Nê đường đi khó khăn, “đều là đường nhỏ gập ghềnh khúc khuyủ, núi vây quanh” , hơn nữa “ở dưới chân núi, suốt bảy tám dặm đường không một bóng người”, chính là nơi hoành hành của bọn cường nhân. Những sự thay đổi ấy khiến cho diễn biến câu chuyện càng  thêm hợp lý.
            Thứ hai, Thay đổi sự phối hợp nhân vật. Bên “bị cướp”, người áp tải từ huyện uý Mã An Quốc đổi thành Thanh Diện Thú Dương Chí. Mã An Quốc vốn chỉ là một tên ngốc, nhưng Dương Chí vừa là “hậu duệ của một dòng họ ba đời làm tướng, là cháu của Ngũ hầu Dương Lệnh Công”, võ nghệ siêu quần vừa xét việc sâu sắc tinh vi. Anh ta không chỉ hiểu rõ suờn núi Hoàng Nê địa thế hiểm yếu, “nơi bọn cường nhân hoành hành”, mà còn có bài học kinh nghiệm bị cướp ở Hoa Thạch Cương. Muốn anh ta bị lừa khó càng thêm khó. Trong nội bộ nhóm “bị cướp”, lại đặt thêm các nhân vật lão đô quản, hai tên Ngu hầu và bọn lính, xảy ra rất nhiều chi tiết. Giữa Dương Chí và ba nhóm nhân vật này tạo thành ba tuyến mâu thuẫn, ảnh hưởng lẫn nhau, đã làm nảy sinh một cách khách quan sức mạnh vô hình, dồn Dương Chí dần dần phải nhượng bộ. Ba tuyến mâu thuẫn này là mâu thuẫn nội bộ  của nhóm “bị cướp”, kết quả của cuộc đấu tranh mâu thuẫn nội bộ đã thúc đẩy sự phát triển và chuyển biến mâu thuẫn song phương giữa “nhóm bị cướp” và nhóm “mưu cướp”, làm tăng thêm tính tất nhiên nội tại của diễn biến câu chuyện. Bên “mưu cướp”, từ tám người đàn ông lỗ mãng vô danh được đổi thành Trí Đa Tinh Ngô Dụng, Triều Cái, Công Tôn Thắng, Bạch Thắng, Ba anh em họ Nguyễn và  Lưu Đường. Nguyên mẫu là tám người đàn ông gánh theo hai thùng rượu, thì bây giờ  chia làm hai ngả, bẩy người bán táo, một người bán rượu. Trước tiên bán táo, sau mới bán rượu. Người ngựa hai ngả phối hợp chặt chẽ, giả đùa diễn thật, đùa thật làm giả, dắt mũi Dương Chí, khiến anh ta không thể không chui vào bẫy. Điều đó  khiến cho câu chuyện càng thêm khúc triết,  càng giàu kịch tính. Sự  sửa đổi biến hoá các sắp xếp phối hợp về nhân vật của cả hai bên đã khiến cho “cướp” đấu với “ngốc” như nguyên mẫu ban đầu trở thành “trí” đấu “trí”, càng làm tăng thêm tính truyền kỳ cho câu chuyện.
            Thứ ba, đã làm phong phú thêm tình tiết của câu chuyện, thêm cành, thêm lá, khuấy nước dậy sóng. Toàn bộ câu chuyện ban đầu không có dư âm, câu chuyện bây giờ như sóng lan tỏa, phức tạp và khúc triết hơn nhiều, bất kể nhân vật nào đều có thể nhìn thấy rõ. Đơn cử như Bạch Thắng bán rượu là một vai  kịch rất hay. Một chuỗi những chi tiết nghệ thuật xuyên suốt, nối tiếp nhau là chỗ mà câu chuyện nguyên bản không sánh nổi. Ví dụ: trong bài hát “mở màn”, bốn câu hát khiến cho cái nóng nực của bọn lính không vơi đi mà càng làm cho cái nóng bức, cái khát, sự bực bội, chán nản tăng thêm mấy phần. Đặc biệt, trong câu hát, người nông phu với vương tôn công tử được sử dụng một cách vô tình nhưng lại có dụng ý ám chỉ lính hầu và Dương Chí, khiến cho sự xung đột nội bộ lắng xuống trong chốc lát lại rục rịch được khơi dậy. Anh ta rõ ràng là muốn lừa cho bọn Dương Chí uống rượu nhưng năm lần bảy lượt to mồm kêu không bán, thậm chí dùng giọng điệu xúc động phẫn nộ nói một cách chân thực: “Rượu này có thuốc mê ở bên trong đấy!”.  Muốn bắt lại cố tình thả, trái lại hiệu quả đạt được làm cho người ta phải kinh ngạc. Còn nữa, anh ta không có gáo múc rượu, vừa nói rõ rượu này quả thật được mua từ trong thôn ra, vừa dẫn ra những tình tiết  mượn  gáo, bỏ thuốc mê ở  phía dưới. Chi tiết thêm nửa gáo rượu này như lạc từ trên trời xuống, vừa thăm hỏi khẩu vị của bọn Dương Chí, vừa tiến thêm một bước chứng minh bọn bán táo và người bán rượu không cùng một hội, quan trọng hơn cả là thuốc độc đã bỏ vào rồi mà Dương Chí vẫn  cho rằng hai thùng rượu đích xác đều không có độc.
            Những phân tích trên đây của chúng ta vẫn chỉ là lấy việc bàn việc, còn chưa bàn đến vị trí của đoạn này trong kết cấu nghệ thuật của toàn bộ tác phẩm Thuỷ hử và ảnh hưởng đến đường đời của Dương Chí vvv.., nhưng chúng ta đã có thể thấy được năng lực tưởng tượng thiên tài của tác giả Thuỷ hử " (Trích dịch từ 小说美学》, 陆志平,吴功正著,东方出版社,1997)...

Sự chuyên biệt hoá "văn" và "sử" trong văn học cổ Đông Á, bắt đầu từ "tưởng tượng"?


(1) Xem Hà Tâm, Nghiên cứu Thuỷ hử, NXB Văn học cổ điển, 1957