Tôi đã có thể xác định chắc chắn rằng bản Việt sử lược ký hiệu VHv.1521 không
phải là bản mà ông Trần Quốc Vượng dùng để dịch sang tiếng Việt. Ký
hiệu VHv.1521 được in kèm thêm vào bản in Việt sử lược năm 2005 chỉ là một giải pháp tình thế (đây
là một câu chuyện liên quan đến văn bản học sử liệu mà tôi sẽ nói sau).
|
Bản Việt sử lược in năm 2005 |
Tuy nhiên, suy luận
của tôi về việc ông Trần Quốc Vượng dịch
Việt sử lược trên một bản chép tay vẫn đứng vững khi có
người (đáng tin cậy) khẳng định điều đó. Nhưng lúng túng ở chỗ
người cung cấp thông tin cũng không rõ bản đó là bản nào? Le Minh Khai
ở đây đã chỉ ra một chi tiết quan trọng: Trong VHv.1521 không nhắc gì
đến
守山閣叢書 (Thủ sơn các tùng
thư), trong khi tại bản dịch của Trần Quốc Vượng lại nêu rõ chi tiết
đó. Nếu thực sự ông Trần Quốc Vượng đã dịch
Việt sử lược dựa trên một bản chép tay thì bản đó nhất
định phải có đầy đủ các yếu tố đã nêu trong phần dịch.
Hiện nay trong Kho sách của Viện Hán Nôm có 2 bản
Việt sử lược 越史略. 1 bản có ký hiệu VHv.1521 như tôi đã nói
ở bài trước. 1 bản khác có kí hiệu VHv.1331. Trong
Thư mục đề yếu có thuyết minh rõ: Đây là bản do Hoàng Xuân
Hãn chép bằng bút mực xanh trên giấy tây kẻ sẵn theo hàng dọc. Cuốn
này trong Thư viện Hoàng Xuân Hãn có kí hiệu là A.74.
|
Việt sử lược ký hiệu VHv.1331 |
|
Mục "Quốc sơ duyên cách" bản VHv.1331 |
Khi chúng tôi
khảo sát văn bản VHv.1331, lúc đầu thật khó phát hiện ra dòng chữ
守山閣叢書 (Thủ sơn các tùng
thư), vì nó bị đóng chẹt vào gáy sách (nếu không nhìn kỹ sẽ hoàn
toàn không biết đến dòng chữ này).
|
守山閣叢書 (Thủ sơn các tùng thư) |
|
守山閣叢書 (Thủ sơn các tùng thư) |
Và không ngoài dự đoán của chúng
tôi, cũng giống như VHv.1521, toàn bộ những chỗ chép là “Đối”
碓 trong nguyên bản Tứ khố,
đều tự động chuyển thành “Hùng” (hữu
右một
bên, bộ chuy
隹một bên) trong
bản chép tay VHv.1331.
|
Bản Việt sử lược trong Tứ khố |
|
Bản Việt sử lược bản VHv.1331 |
Chính vì sự phát hiện ra dòng chữ守山閣叢書 (Thủ sơn các tùng thư) ở một vị trí khó
khăn như thế (nằm kẹp trong gáy sách) nên chúng tôi nghi ngờ bản VHv.1521
cũng trong trường hợp tương tự. Bản VHv.1521 mà Thư viện Hán Nôm cung
cấp cho độc giả là bản copy. Tôi có chút băn khoăn giả dụ nếu ở bản
gốc của ký hiệu VHv.1521守山閣叢書
(Thủ sơn các tùng thư) cũng được chép ở một vị trí sát gáy sách
thì khi photo sách có thể dòng chữ đó sẽ bị bỏ sót. Tuy nhiên khi
tôi ngỏ lời muốn xin được phục vụ bản gốc thì Thư viện họ yêu cầu
phải có sự đồng ý của cấp lãnh đạo Viện. Vì các thủ tục cần có
một thời gian nhất định nên tạm thời với trường hợp VHv.1521 tôi chưa
thể xác minh rõ có hay không có dòng chữ守山閣叢書
(Thủ sơn các tùng thư).
Tôi không khẳng định chắc chắn rằng ông Trần Quốc
Vượng có thể đã dịch Việt sử lược
từ bản chép tay của Hoàng Xuân Hãn. Bởi vì sẽ còn nhiều các
vấn đề rắc rối khác của yếu tố văn bản học mà hiện giờ tôi chưa
thể khảo sát. Nhưng lần này, vấn đề thực sự mà tôi quan tâm lại không
nằm ở chuyện ông Trần Quốc Vượng đã dịch từ bản nào. Việc xác minh
lại các thông tin của bản VHv.1331 càng khiến tôi băn khoăn: tại sao trong
các bản chép tay của Việt sử lược
ở Việt Nam, “Đối vương” lại “tự động” được chép thành “Hùng vương” như
một sự mặc nhiên? Trong khi những bản Việt
sử lược in thành sách ở Trung Quốc chữ Đối
vẫn được giữ nguyên? Có phải vì tự dạng của hai chữ “hùng”
và “đối” quá giống nhau nên khi người sao chép ở Việt Nam đã có sự
nhầm lẫn? Hay người sao chép nghiễm nhiên cho rằng “Đối” là sai, “Hùng”
mới đúng. Với những người tiến hành sao chép Việt sử lược (những trí thức Nho học) ở Việt Nam dường như được
kế thừa một thứ “tiềm thức Hùng Vương”, thứ tiềm thức này đã tồn tại từ
các thế hệ trí thức Nho học trước nữa, trước nữa và trước nữa nữa, khiến cho các
khả năng có một vị tổ tiên dân tộc khác không phải tên là Hùng Vương đều
bị loại bỏ, nghĩa là vị tổ tiên của dân tộc nhất định phải là “Hùng”? Thậm chí ngay cả Hoàng Xuân Hãn cũng mang "tiềm thức" này nếu quả thực ông chính là người chép văn bản VHv.1331. 'Hùng" bắt đầu được tiếp nhận vào Việt Nam từ bao giờ và qua hệ thống sử liệu nào? Vậy tại sao trí thức phong kiến nhất quyết chọn “Hùng” mà
không phải “Lạc” (trong khi "Lạc" đáng nhẽ phải là "ứng cử viên" số một vì
tư liệu ghi chép về nó có niên đại sớm hơn)? Nó phản ánh ý thức hệ gì và cho thấy gì về hệ thống sử liệu Nho gia Việt Nam?
Một ghi chú nhỏ: “Đối”: chày giã gạo
……………………….
Bàn về Lạc Vương và Hùng Vương trên Tri Tân (hay là sự trỗi dậy của ứng cử viên "Lạc Vương" cho ghế "quốc tổ" :)) :))):
1. Nguyễn Văn Tố, Lạc
Vương chứ không phải Hùng Vương, Tri Tân, số 9, Tháng 8, năm 1941.
2. Nguyễn Văn Tố, Lạc
Vương với Hùng Vương, Tri Tân số 96, 1943
3. Nguyễn Văn Tố, Lại
chữ Lạc với chữ Hùng, Tri Tân số 101, 1943