Cho Tam Uyển Trần Quang Đức
Thử đặt một câu hỏi thế này: tại sao trong hằng hà
sa số các sự kiện đã xảy ra trong lịch sử, có những sự kiện được
ghi chép lại, có những sự kiện lại không? (Nói theo một cách khác: Tại
sao trong cùng một thời điểm, cùng một câu chuyện, cùng viết về một
nhân vật, có sự kiện được sử gia này chép lại, nhưng lại bị sử gia
khác lờ đi?). Loại bỏ các yếu tố khách quan, loại bỏ các yếu tố
theo kiểu “viết sử theo chỉ đạo từ trên” (sử Nho gia có các tiêu chí
của riêng mình), có những sự kiện sử gia biết rõ mười mươi nhưng họ
nhất định không chép mà chỉ chăm chắm vào sự kiện khác. Điều đó cho
thấy “quyền lực”của sử gia trong việc điều khiển các sự kiện dưới
ngòi bút cả mình. Sử gia mới chính là những người “quyết định sự kiện nào được phát ngôn,
theo trật tự nào và vào lúc nào” (Arnold Toynbee). Trước khi đặt
bút chép sử, sử gia đã có sẵn một chủ ý, một mục tiêu và sự kiện
chỉ là một chuỗi các chứng cứ được sắp xếp theo tính mục đích. Nói
một cách khác, sử gia là mới chính là người “đem lại ý nghĩa” cho
sự kiện. “Sự kiện không tự nói về
mình” (Arnold Toynbee). Vì thế, tương tự, “đọc” được gì từ các sự
kiện, xét cho cùng hoàn toàn phụ thuộc vào cách thức diễn giải của
người đọc. Sự kiện không bao giờ ở sẵn đấy cho chúng ta dùng. Chúng ta phải đọc
nghĩa của sự kiện, cái đó, tôi gọi là “đọc sử”.
Lấy ví dụ từ một trường hợp cụ thể, sự kiện tranh
cãi giữa phe Nguyễn Trãi và phe Lương Đăng về lễ nghi (bao gồm âm nhạc và ở đây
tôi muốn bàn rộng thêm về chuyện triều phục) có thể diễn giải ra thành
những nghĩa khác nhau tùy từng tiêu chí của người đọc, như trên blogCavenui (tôi vào đọc theo chỉ dẫn của bác thaothucsaigon và vì thế mới
có bài viết này) chẳng hạn, là một “kiểu đọc”, một “kiểu đọc có
chủ ý”. Khác với blog Cavenui, tôi “đọc” từ câu chuyện này một ý
nghĩa khác, không thuần túy chỉ là chuyện tranh cãi nhã nhạc hay như
chuyện ai Hoa hơn, ai Việt hơn (ở Việt Nam bây giờ hình như bất cứ
chuyện gì dính dáng đến chuyện Hoa Việt mới được xem là hot? Một
thứ mode tư duy của thời đại chăng?). Việc thiết định lễ nghi triều
phục ở các triều đại “thường” (“thường” chứ không phải “luôn”) được chính sử
chép tương đối tỉ mỉ vì nó là chuyện chính sự hệ trọng. Tuy nhiên, trong lịch
đại vương triều Việt Nam chưa từng có việc hiệu định triều phục, nhã
nhạc nào lại gây tranh cãi om xòm như dưới thời Lê Thái Tông. Bên cạnh ý nghĩa tranh chấp quyền lực quyết liệt giữa các
phe phái trong triều đình (như sử gia Tạ Chí Đại Trường đã diễngiải), sự kiện giữa Nguyễn Trãi và Lương Đăng với tôi còn có thể được xem
như là một chứng cứ cho thấy việc thiếu thốn sử sách điển tịch nghiêm
trọng (điển tịch hoặc bị thiêu hủy, hoặc bị thất tán) của nước ta tại
thời điểm đó. Nếu đọc lại toàn bộ diễn biến của sự kiện đó từ đầu đến cuối,
chúng ta có thể thấy “cổ chế” là một câu hỏi thường xuyên được đặt ra mỗi khi động
chạm đến vấn đề lễ nghi triều phục, là nỗi đau đáu của Trần Thái Tông, và cũng
là nỗi đau đáu của những vị Nho thần như Nguyễn Trãi.
Thông thường, triều vua nào muốn sắp đặt lại lễ nghi
triều phục thì những vị quan được giao nhiệm vụ sẽ dựa theo “tiền
lệ” mà hiệu định. Tiền lệ nằm ở đâu, nằm trong sách kinh điển, trong
các sách ghi chép về quy chế cổ, hoặc trong những ghi chép điển tịch của
các triều trước. Theo như sử chép, từ dưới thời Lê Thái Tổ Nguyễn
Trãi đã được giao cho việc chế định triều phục, nhưng đến tận thời
Lê Thái Tông ông vẫn “vị cập thi
hành” (chưa kịp thi hành). Đại Việt
sử ký toàn thư không chép cụ thể
là Lê Thái Tổ giao cho Nguyễn Trãi nhiệm vụ chế định triều phục vào năm nào
nhưng có thể ngầm hiểu là từ sau khi ông được phong Quan phục hầu 冠服候 vào năm 1428. Suốt từ năm 1428 đến
năm 1437, ngoài sự kiện can ngăn vua không bỏ áo tang năm 1434, Nguyễn Trãi xoay
sở loay hoay mãi mà vẫn không dâng lên được một quy chế cụ thể nào về triều phục
cho triều Lê, đến cuối cùng Lương Đăng chỉ dâng một tờ sớ là xong. Một người
như Nguyễn Trãi mà lại không soạn nổi quy chế triều phục? Chỉ có một lí do duy
nhất: Phải chăng ông trù trừ vì ông không có trong tay một điển tịch nào khả dĩ
để có thể làm đầu mối, làm chỗ dựa, làm bằng cớ cho công việc hiệu định của
mình. Có lẽ ông cần thời gian để truy xét lại sách vở và tìm kiếm thêm nguồn tư
liệu từ phía Trung Hoa?
Sự thể rõ ràng hơn trong lời tâu của Lương Đăng sau khi bị
đám các ông Nguyễn Trãi, Nguyễn Truyền, Đào Công Soạn, Nguyễn Văn Huyến dâng tấu
nghi ngờ về tri thức và tư cách chế Lễ tác Nhạc của ông ta. “臣 無 學 術 不 知 古 制。今 之 所 為 尽 其 所 見 而 已。 若 行 與 不 行 顧 在 陛 下。臣 安 敢 專”. (Thần không có học thuật, không
biết quy chế cổ. Nay những gì được chế định đều nằm
hết trong những gì thần biết (được thấy) mà thôi. Nhược bằng chuyện
thi hành hay không thi hành trông chờ cả nơi bệ hạ, thần đâu dám quyết riêng được.).
“Không có học thuật” bởi vì ông ta vốn là một Thái giám chứ không phải là một
Nho thần. “Không biết quy chế cổ” là bởi vì những gì ông ta biết về triều phục
lễ nghi là những gì ông ta “sở kiến” khi còn làm Thái giám dưới triều tiên đế
(Lê Thái Tổ), sự hiểu biết của ông ta chỉ dừng đến đó thôi, lễ nghi triều phục
của đời trước thế nào thì ông ta không biết. Mà lễ nghi triều phục dưới triều
Lê Thái Tổ thì vốn chỉ là đặt tạm ra để đáp ứng nhu cầu chính sự trước mắt
(chính Lê Thái Tông cũng nghi ngờ về sự chính xác của quan phục, muốn đổi áo của
quan tam phẩm từ hồng sang xanh cho hợp với “cổ chế” (quy chế cổ). Sau Lê Sát lấy
cớ là quy định của tiên đế, Lê Thái Tông mới thôi).
Tuy nhiên Lương Đăng không
phải là một Thái giám tầm thường: ông ta là người biết chữ (nếu không muốn nói
là người có hiểu biết), (theo lời tâu của Bùi Cầm Hổ với Lê Thái Tông: “tiên đế dĩ tiêu thức tự dụng vi nội nhân”
(tiên đế cho rằng [ông ta] là người có chữ nghĩa nên dùng làm nội nhân). Với
trách nhiệm mà Lê Thái Tông giao phó, nếu ông ta muốn tìm hiểu “quy chế cổ” thì
cũng không có gì là quá khó khăn nếu có điển tịch trong tay. Vấn đề là vào thời
điểm đó, liệu có đủ điển tịch để ông ta tra cứu hay không?. Ngay trong lời tâu của
Nguyễn Trãi khi phản bác lại Lương Đăng cũng rất mơ hồ, không trích dẫn rõ là
những quy chế mà ông nêu ra khác với Lương Đăng là ghi trong sách nào, những
triều nào đã thi hành. Người ta có thể nghi ngờ rằng, những quan điểm không khớp
giữa ông và Lương Đăng, chính là sự khác nhau trong “sở kiến” giữa hai người. Nguyễn
Trãi “sở kiến” nhiều hơn Lương Đăng vì ông là cháu ngoại của Trần Nguyên Đán,
vì ông đã từng có giai đoạn làm quan dưới thời nhà Hồ. Nhưng “sở kiến” quan trọng
nhất trong quan niệm của một Nho thần như Nguyễn Trãi phải là “điển tịch”. Không
có điển tịch làm bằng, ông chỉ có thể dựa vào một lý lẽ duy nhất: Lương Đăng là
một hoạn quan, ông ta không có tư cách để chế Lễ tác Nhạc.
Kết cục cuối cùng của Nguyễn Liễu chính là bằng chứng có sức nặng
nhất cho thấy tại thời điểm đó, những điển tịch quan trọng (trong đó có
các bộ sử) của nước ta đã không còn. Bởi vì cho dù thế lực hoạn quan có lớn mạnh
đến thế nào đi chăng nữa, thì trong cuộc tranh cãi trước mặt vua như thế, chỉ cần
dâng lên một điển tịch làm chỗ dựa lý lẽ thì đám Nho thần đâu đến nỗi phải chịu nhục trước
thế lực hoạn quan. Vấn đề là phe Nguyễn Trãi không có được những bằng chứng đó.
Họ không có điển tịch. Nước ta sau cuộc chiến với nhà Minh hầu như đã không còn
điển tịch.
Không có điển tịch nghĩa là không có rường mối. Không có rường mối thì mọi việc ắt loạn. Câu chuyện giữa Nguyễn Trãi và Lương Đăng không phải là khởi đầu cho một giai đoạn lịch sử đại loạn và đầy bi thảm đó sao?
......................................................................................
Cùng một xâu: Cổ sử (1), Cổ sử (2), Cổ sử (3)
......................................................................................
Cùng một xâu: Cổ sử (1), Cổ sử (2), Cổ sử (3)