Tiểu dẫn: Một
người gửi link rồi hỏi "có ý kiến gì về cách hiểu "kiêu dân" của bác Đông
A". Đáng nhẽ phải "còm" bên blog bác Đông A thì mới đúng
tinh thần dân chủ, nhưng xét thấy người đọc bên đó là một cộng đồng nhộn nhạo,
mọi ý kiến ra vào không khéo lại bị bẻ quẹo bẻ xiên, mà dưới đây chỉ đơn
thuần là một lời trao đổi lại mang tính kiến thức thông thường. Khi sang đây, mục
đích của em là muốn chia sẻ với những người [thân nhưng không yêu: D] về những gì mà em
"trót đã biết" và "thích được biết", vì thế thiết tưởng
không nên vì một cái comment không đúng chỗ mà phải chuốc lấy phiền hà vào người
cho nó chán.
Thứ nhất, với trình độ chỉ chuyên dùng từ điển Hán Việt Thiều Chửu
và Đào Duy Anh tôi xin dịch lại mục "kiêu dân" nằm trong quyển 6, cuốn Vũ
Lâm cựu sự của Chu Mật. (Dịch đầy đủ mục đó mới có thể xác định được
"kiêu dân" là gì)
"Đô dân tố kiêu, phi duy phong tục sở trí, cái sinh trưởng liễn
hạ, thế sử chi nhiên. Nhược trú ốc tắc động quyên công tư phòng nhẫm, hoặc
chung tuế bất tằng nhất hoàn. Chư vụ thuế tức, diệc đa quyên phóng, hữu
liên niên bất thu nhất khổng giả, giai triều đình tự hành bão nhận. Chư hạng
khoa danh, ân thưởng tắc hữu "hoàng bảng tiền", tuyết giáng tắc hữu
"tuyết hàn tiền", cửu vũ cửu tình tắc hựu hữu chẩn tuất tiền mễ. Đại
gia phú thất tắc hựu tùy thời hữu sở tư cấp, đại quan bái mệnh tắc hữu sở vị
"thướng tiết" tiền. Bệnh giả tắc hữu thi dược cục, đồng ấu bất năng tự
dục giả tắc hữu từ ấu cục, bần nhi vô ỷ giả tắc hữu dưỡng tế viện, tử nhi vô liễm
giả tắc hữu Lậu trạch viên. Dân sinh hà kỳ hạnh dư?"
[Dân đô thị vốn kiêu ngạo, không phải vì phong tục xui nên, có lẽ
vì sống ở chốn kinh sư, tư thế khiến họ thành ra như vậy. Như chuyện nhà ở, thường
được miễn trừ hết tiền thuế "công tư phòng", có khi trọn một năm
không từng phải trả một "hoàn" thuế nhà nào. Các khoản thuế lợi tức
phần lớn bỏ qua, có khi mấy năm liền không thu một nguồn nào, đều là triều đình
tự mình bằng lòng đảm trách. Các hạng mục điều khoản, ân thưởng thì có tiền
"hoàng bảng"[1], tuyết xuống thì có tiền
"hàn tuyết", mưa lụt hạn hán thì có gạo tiền chẩn cấp. Nhà đại gia
phú hộ thì tùy thời tư cấp có chỗ, những đại quan vâng mệnh triều đình thì có
tiền "thướng tiết". Người bệnh thì có cục cấp thuốc, trẻ nhỏ không tự
nuôi nấng được bản thần thì đã có cục từ ấu, nghèo khốn không nơi nương dựa thì
đã có viện dưỡng tế, chết không người liệm xác thì đã có Lậu Trạch viên[2]. Đời sống của dân còn hạnh phúc nào hơn thế ư?]
Đoạn dịch trên và cách hiểu sau đây của bác Đông A, rõ ràng là có một sự khác biệt tương đối
lớn. Bác Đông A cho rằng:
["Đô dân tố kiêu, phi duy phong tục sở trí, cái sinh trưởng
liễn hạ, thế sử chi nhiên", có nghĩa là dân ở kinh đô vốn thường kiêu,
không chỉ do phong tục, mà còn do ở dưới chân thiên tử nên có cái mạnh về thế lực
sai khiến. Chu Mật còn đưa ra ví dụ như thuế hàng năm chẳng thu được xu
nào, triều đình cũng đành bằng lòng. Khái niệm "kiêu dân" trong Vũ
lâm cựu sự như vậy là chỉ nhóm người ở kinh đô, được ưu ái của triều
đình mà tạo thành thế kiêu, bất chấp luật pháp cho mọi người. ]
Thứ nhất, "thế sử chi nhiên" mà bác dịch thành "có
cái mạnh về thế lực sai khiến" là sai hoàn toàn, cả về ngữ pháp lẫn
nghĩa.
Thứ hai, theo những gì mà tôi hiểu thì toàn bộ những ví dụ được liệt
kê ra trong đoạn viết trên cho thấy: kiêu dân ( của Chu Mật)
không phải là nhóm người ở kinh đô, được triều đình ưu ái mà bất chấp pháp luật.
Bác Đông A khẳng định thế thì thực là oan uổng cho "kiêu
dân" đời Tống. Ở đoạn trên không có chuyện bất chấp pháp luật, chống
đối, không chịu nộp thuế, o ép đến nỗi triều đình cũng phải chịu bằng lòng. Việc
miễn thuế là vì kinh tế phát triển, triều đình không cần phải huy động đến tiền
thuế của dân, đây là việc làm tự triều đình cho phép hẳn hoi, vua ban chiếu lệnh
đàng hoàng. Ý Chu Mật rất rõ ràng: đơn giản kiêu dân là
dân thời thái bình, được hưởng nhiều ưu đãi do triều đình đem lại: như được
hưởng chế độ miễn thuế "công tư phòng", được hưởng những điều kiện cứu
tế và phúc lợi công cộng, vì thế họ cái tư thế kiêu ngạo của con dân trong một
nước ở giai đoạn thịnh trị.
Trên đây chỉ là vài lời trao đổi lại với bác Đông A về cách hiểu
khái niệm "kiêu dân"của Chu Mật. Còn việc bác dùng khái niệm
"kiêu dân" theo ý bác trong một tình huống khác là việc của bác,
tôi no comment.
Phần kết: Chữ
"kiêu dân" quả thực rất hiếm tìm thấy trong sử liệu phong kiến Trung
Quốc. Có lẽ do kiến văn hạn hẹp và sách vở tồi tàn (còn mắc thêm bệnh lười biếng)
nên sau một hồi ngó nghiêng thì tôi chỉ tìm thấy trong Trung Quốc toàn
sử¸ phần viết về lịch sử Tống Liêu Kim, có một đoạn như sau: [Tây Hồ phồn thịnh lục kí tải, tiết thanh minh, công tử
vương tôn, phú thất kiêu dân, đạp thanh du thưởng thành Tây]. Chữ "kiêu
dân" ở đây có nhẽ chỉ có nghĩa là "đại gia thành thị"?
Theo tôi, không nên đánh đồng khái niệm "kiêu dân" với
"kiêu binh".
Tạ tiên sinh cũng dùng chữ "kiêu dân" trong tác phẩm của
mình. Cũng có chút thắc mắc về cách dùng này, có lẽ phải nhờ "ai đó"
biên thư hỏi giùm cái nhỉ? :)) :))
Cập nhật
[Dân đô thị vốn kiêu ngạo, không chỉ do phong tục xui nên, vì sống ở
chốn kinh sư, tư thế khiến họ thành ra như vậy. Như chuyện nhà ở, thường được
giảm trừ tiền thuế "công tư phòng", có khi trọn một năm không từng phải
trả một "hoàn" nào. Các khoản thuế lợi tức miễn trừ phần lớn, có khi
mấy năm liền không thu một nguồn nào[3], đều là triều
đình tự mình bằng lòng đảm trách. Các hạng mục điều khoản, ân thưởng thì có tiền
"hoàng bảng", tuyết xuống thì có tiền "hàn tuyết", mưa lụt
hạn hán thì có gạo tiền chẩn cấp. Bậc đại gia phú hộ thì tùy thời mà có [hành động] tài trợ, đại quan thăng chức thì lại
có chỗ cho tiền "thương tiết"[4]. Người bệnh thì có cục cấp
thuốc, trẻ nhỏ không người nuôi nấng thì đã có cục từ ấu, nghèo khốn không nơi
nương dựa thì đã có viện dưỡng tế, chết không người liệm xác thì đã có Lậu Trạch
viên. Đời sống của dân còn hạnh phúc nào hơn thế ư?']
[1] Hoàng bảng:
là cáo văn của hoàng đế . Cũng chỉ bảng văn mà triều đình ban ra sau kỳ thi Điện.
Vì dùng loại giấy vàng để viết nên có tên là "hoàng bảng". Tiền
hoàng bảng: khi hoàng đế ra chiếu lệnh mới thì ân thưởng tiền cho dân
chúng.
[2] Lậu Trạch viên: mộ chung do nhà quan đặt
ra. Vì chiến loạn nên những thân thể tử vong vô thừa nhận hoặc gia cảnh bần hàn
không có đất chôn thân, được quan lại chôn chung vào một chỗ, nơi đó gọi là Lậu
Trạch Viên. Chế độ Lậu Trạch Viên này bắt đầu từ đời nhà Tống, nhưng cũng có
người cho là đã có từ thời Đông Hán.
[3] Riêng những từ chỉ
đơn vị tiền tệ như "hoàn" và "nhất khổng" tôi vẫn "bảo
lưu" chờ tra thêm các tài liệu khác.
[4] Theo Bùi Hiệu Duy:
khi mệnh quan triều đình nhậm chức hoặc được cất nhắc thì bố thí cho dân chúng
để biểu thị khánh chúc. Nhưng vì không phải là vào ngày lễ tiết mà lại khánh
chúc, cho nên tiền [dùng bố thí cho dân] gọi là tiền "thương tiết"
(tiền đoạt tiết)