Vì comment của một bác nhắc nhở phía dưới (cảm ơn bác “nặc
danh” lần nữa), nên mới nhớ ra cần ghi lại một nỗi băn khoăn. Trong cuốn Nhìn lại sử Việt (từ tiền sử đến tự chủ), Lê Mạnh Hùng có nhắc đến công trình nghiên
cứu của Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc (năm 1971) chứng minh “lạc” trong thư tịch
Trung Quốc viết về nước ta là một phiên âm “rạc” (rặc) mà theo tiếng cổ và tiếng Mường
có nghĩa là “nước”. Bài viết của PGS Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc đã in trong cuốn
Hùng Vương dựng nước, (tập 4. NXBKHXH,
1974). Quan điểm này nhiều lần đã được các nhà nghiên cứu ngôn ngữ thế hệ sau trích dẫn
lại như trường hợp ông Tạ Đức với bài này; hoặc phát huy mở rộng quan điểm như trường hợp ông Vũ Thế Ngọc ở trong bài này chẳng hạn.
Tuy nhiên, tình cờ đọc bài này, tôi thật băn khoăn quá đỗi, ông
Kiều Thu Hoạch viết: “Bài viết của chúng
tôi đã ghi cả bốn chữ mà ta đều đọc là lạc: 鵅B 駱, 雒, 貉 (với các bộ thủ: điểu, mã,
chuy, trãi). Theo tra cứu của chúng
tôi, thì bốn chữ này đều là ghi âm Hán của từ Việt cổ (rác, đrác, đác)
còn thấy trong tiếng Mường, chỉ nước.”
Rốt cục “lạc” với nghĩa là "nước" theo tiếng Mường là phát hiện của
ai? Của ông Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc (từ năm 1971) (đã được nhiều người công nhận) hay là “theo sự tra cứu của chúng tôi” của ông Kiều Thu Hoạch? “Theo tra cứu của chúng tôi” là một cụm từ
rất mơ hồ. Nếu ai chưa từng đọc Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc, hoặc chưa đọc bất cứ một bài viết nào liên quan, chỉ đọc bài viết
trên của ông Kiều Thu Hoạch sẽ lầm tưởng rằng ông Kiều Thu Hoạch là người đầu
tiên phát hiện ra điều đó.
Nhân tiện trong bài viết trên, ông Kiều Thu Hoạch còn có một
nhầm lẫn nhỏ. Ông viết “Lạc bộ mã 駱 là ngựa trắng bờm đen. Lạc bộ chuy 雒 là ngựa đen bờm trắng. Hai
chữ này đều là chữ Kinh Thi (thiên Lỗ tụng), đều không hề có nghĩa chỉ loài
chim, như cụ Đào [Đào Duy Anh] giải thích”. Trường hợp駱 này thì tôi không bình luận, nhưng với trường hợp雒 này, ông Kiều Thu Hoạch nhầm.
雒 đúng
là có thể dùng thông với 駱 với nghĩa ngựa đen bờm trắng như ông Kiều Thu Hoạch đã nói.
Nhưng 雒 theo Thuyết văn giải tự thì có nghĩa là tên một loài chim: “雒,鵋鶀也。怪鸱” , 鵋鶀 là
một loại chim thuộc cú mèo (quái si), còn gọi là miêu đầu ưng (Tham khảo thêm các trích dẫn khác về 雒 với nghĩa là một loại chim trong bài viết của ông Vũ Thế Ngọc đã dẫn link ở trên). Tuy nhiên, điều tôi rất rất rất rất thắc mắc
là cụ Đào Duy Anh đã dựa trên cơ sở nào để giải thích 雒 vốn là một loại hậu điểu 候鳥 (một loài chim có đặc tính
di cư giống như chim nhạn, chim én) ở Giang Nam? 鸱 và 候鳥là
khác nhau. Vì thế quan điểm của cụ Đào Duy Anh: “Lạc chính là tên vật tổ, tức loài chim hậu điểu mà chúng ta thấy hình
dung trên trống đồng Ngọc Lũ” rõ ràng là thiếu thuyết phục.
Lạc= Rác/dak/nác=nước?
...................................................................................
Cùng một xâu:
1. Đối Vương hay Hùng Vương
2. Đối Vương hay Hùng Vương (tiếp theo)
...................................................................................
Cùng một xâu:
1. Đối Vương hay Hùng Vương
2. Đối Vương hay Hùng Vương (tiếp theo)