Tuesday, May 31, 2011

Nho Pháp tịnh dụng[1] và con đường bành trướng thiên triều


                                                                                  Trần Đình Hượu

Ngày nay đã thành sự thật hiển nhiên, không có gì để nghi ngờ, không có gì phải bàn cãi cái việc những nhà cầm quyền Bắc Kinh là một bọn phản động, thực hiện chính sách đối nội phản nhân dân, đối ngoại xâm lược, chống chủ nghĩa xã hội. Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa không phải đi theo một con đường đặc thù nào đó lên chủ nghĩa xã hội mà là đi theo vết xe cũ của các triều đại phong kiến. Ở đó mấy chục năm nay, với danh nghĩa Đảng và Chính phủ nhân dân, họ tước đoạt mọi quyền dân chủ, cưỡng bức lao dịch, vơ vét nhân tài vật lực, dốc vào việc quân sự hóa, chuẩn bị chiến tranh. Có lực lượng quân sự mạnh không phải để giải phóng Đài Loan hay đề phòng đất nước bị xâm lược mà để có thế mạnh, áp đặt địa vị siêu cường cho thế giới, nếu cần có thể bằng cách gây chiến tranh xâm lược. Ở đó các phe phái không ngớt cấu xé nhau, giành vị trí lãnh đạo, giành nhau làm chủ việc thực hiện mục tiêu đó. Những từ “Cách mạng vô sản”, “Chủ nghĩa Mác-Lênin”, “Đảng Cộng sản” chỉ là những cái nhãn hào nhoáng che đậy thực chất phản động.
Thực tế đó là kết quả áp dụng tư tưởng Mao Trạch Đông, mà nhiều người khi đi tìm nguồn gốc -ngoài những điều kiện thực tế và lịch sử khác-đều chú ý đến ý thức hệ truyền thống, đến tư tưởng Nho gia và Pháp gia, được truyền bá hàng ngàn năm, tạo thành một thứ tâm lý có tính dân tộc.
Vấn đề tư tưởng Nho gia và Pháp gia đã thành một vấn đề khá nổi bật trong các cuộc thảo luận ở Trung Quốc, trực tiếp hay không trực tiếp nêu tên hai học phái cổ đại đó. Hoạt động học thuật đó tiến hành một cách hoàn toàn khác thường. Tinh thần "cổ vi kim dụng" không chỉ là gắn với thực tế, gắn với chính trị, không phải là kế thừa có phê phán truyền thống  mà là lấy xưa bàn nay, là khoác cái áo lịch sử khoa học cho các ý đồ chính trị, cho các mục tiêu tuyên truyền. Nghiên cứu, thảo luận học thuật có khi chỉ là một cách nói bóng gió của các phe phái đang xâu xé nhau, hơn thế nữa chỉ là quả bóng thăm dò, là cái bẫy của các phe phái ấy. Chiến dịch “phê Lâm phê Khổng” trực tiếp đề cập tư tưởng Nho gia và Pháp gia là như vậy. Người ngoài cuộc khó lòng hình dung được sự gán ghép kỳ quặc giữa Lâm Bưu và Khổng Tử và càng ngạc nhiên khi người ta phê Khổng chỉ căn cứ vào vào một vài câu mà Lâm Bưu nhắc lại ở đâu đó. Trước cách thảo luận học thuật như vậy người càng am hiểu chuyên môn bao nhiêu, càng mù tịt bấy nhiêu. Thế nhưng chính cuộc tranh luận quanh tư tưởng Nho gia và Pháp gia đó lại làm cho ta hiểu gián tiếp con đường Trung Quốc.
Chúng tôi bàn tư tưởng Nho gia và Pháp gia về mặt quan hệ của nó với tư tưởng bành trướng thiên triều, có đề cập đến chiến dịch "phê Lâm phê Khổng", mà không phê Khổng, phê Pháp theo cách đặt vấn đề của chiến dịch đó. Chúng tôi cũng không thảo luận tư tưởng Nho gia và Pháp gia như là nguồn gốc tư tưởng  Mao Trạch Đông, theo cách đặt vấn đề của nhiều nhà nghiên cứu trong nước và ngoài nước. Chúng tôi hạn chế trong phạm vi quan hệ giữa hai học thuyết đó và con đường bành trướng Đại Hán. Tư tưởng Mao Trạch Đông không chỉ có bành trướng. Những người không theo Mao, trước hay sau Mao, cũng theo con đường bành trướng. Nhưng cả Mao và họ, tuy đều khó có thể gọi là Nho hay Pháp, đều có liên hệ với tư tưởng Nho gia và Pháp gia. Làm cơ sở cho tư tưởng Mao Trạch Đông là một thực tế. Đằng sau màn khói “phê Lâm phê Khổng” cũng là một thực tế. Thực tế đó là nước Trung Hoa ngày nay. Thế thì tại sao các phe phái theo Mao hay chống Mao lại phải giương hai ngọn cờ cũ kỹ  là hai học phái thời cổ đại lên để đấu đá nhau gay gắt đến thế?
Chúng tôi muốn bàn mấy điểm chính:
- Chế độ chuyên chế của hoàng đế-thiên tử.
- Đường lối bành trướng thiên triều.
- Quan hệ giữa đối nội chuyên chế và đối ngoại bành trướng.
- Tư tưởng Nho gia và Pháp gia trước các vấn đề đó.
Vấn đề thuộc phạm vi lịch sử tư tưởng, nhưng chúng tôi không muốn coi đó chỉ là vấn đề  lịch sử, thuộc quá khứ. Được chỉ đạo theo nguyên tắc "cổ vi kim dụng" mà vấn đề đặt ra quan trọng đến thế, thảo luận gay gắt đến thế, tức là trong thực tế có vấn đề tương tự. Cuối thế kỷ XX mà có vấn đề tương tự với thời kỳ Chiến quốc trước công nguyên, thì đó là vấn đề của cả lịch sử Trung Quốc. Và vì vậy, biết đâu nó cũng còn là  vấn đề của tương lai - xa hay gần - của Trung Quốc.
Vài năm nay, sau khi đánh đổ “bè lũ bốn tên” , người ta đã “tiến hành chiến dịch” “chiêu tuyết”, “bình phản”, gác các chuyện “kỳ quặc” lại, gác các chuyện “phê Lâm phê Khổng” lại. Thế nhưng nếu đó là vấn đề của thực tế hiện tại hay hơn nữa của cả lịch sử Trung Quốc thì nêu ra hay gác lại vấn đề vẫn cứ còn tồn tại.
Với một nước Trung Hoa đang ra sức “bốn hiện đại hóa” và giả định là thành công, thì quan tâm về quan hệ của nó với hai học thuyết Nho gia và Pháp gia liệu có là vô lý? Liệu có thành chuyện gán ghép kiểu “phê Lâm phê Khổng”?

I. Nho gia và Pháp gia với chế độ chuyên chế của Hoàng đế - Thiên tử.

Pháp gia ra đời chậm hơn Nho gia. Học thuyết của họ đối lập với học thuyết Nho gia. Tư tưởng Nho gia lúc bấy giờ mới được Khổng Tử hệ thống hoá lại, nhưng lại là hệ tư tưởng truyền thống  chi phối xã hội Trung Quốc  từ thời Ân Chu, tức là hàng chục thế kỷ trước đó. Vào lúc ra đời, tư tưởng Pháp gia là một trong ba dạng tư tưởng phủ định đối với tư  tưởng truyền thống.
Trong lịch sử Trung Quốc, giữa Pháp gia và Nho gia có mối thù truyền kiếp. Không những về mặt lý luận hai bên mâu thuận gay gắt, mà trong hành động thực tế, Pháp gia là kẻ chủ mưu "đốt sách chôn Nho". Ngay từ khi tư tưởng Pháp gia ra đời, chưa thành hệ thống, Nho gia đã lên án kịch liệt; và đời sau, khi Pháp gia về mặt học thuật đã thất thế, suốt trong hai mươi thế kỷ, các nhà nho vẫn không ngớt chửi rủa họ. Vào thời Chiến quốc, Nho và Pháp ở thế bất tương dung. Kết thúc sự xung đột không phải một bên nào đó bị tiêu diệt, không phải dung hoà, xích lại gần nhau mà được sắp xếp thành "hai hàng văn võ" để thành học thuyết ngự dụng.
Nho giáo là hệ tư tưởng suốt trong lịch sử Trung Quốc - trừ đời Tần - vẫn làm chủ địa hạt chính trị, và tất nhiên do đó, ảnh hưởng đến nhiều mặt khác. Nho gia tuy cũng có mâu thuẫn với các học phái khác như  Mặc gia, Đạo gia và Phật giáo. Nhưng chỉ với Pháp gia mới có một quan hệ đặc biệt: vừa là thù vừa là kẻ cộng tác không rời nhau để bảo vệ ngai vàng của hoàng đế.
Pháp gia ra đời trong cơ sở cục diện tranh bá tranh hùng thời Xuân Thu - Chiến Quốc, đã đưa nước Tần đến chế độ chuyên chế với ngôi hoàng đế. Chế độ mới cần lựa chọn một học thuyết làm hệ tư tưởng chính thống. Tranh chấp gay gắt giữa các học phái, nhất là giữa Nho và Pháp, phản ánh xu hướng của các lực lượng xã hội khác nhau trước thực tế mới và trước sự lựa chọn đó. Cùng với ngôi hoàng đế Tần - Hán ta thấy xuất hiện hai nét nổi bật của chính quyền: chuyên chế tuyệt đối và bành trướng. Nhà Tần dựa vào Pháp gia mà được thiên hạ nên độc tôn Pháp gia, tiêu diệt các học phái khác, trước hết là Nho gia. Nhà Hán sau một thời gian rút kinh nghiệm của nhà Tần lựa chọn "Nho pháp tịnh dụng" dùng cả Nho cả Pháp. Trật tự do nhà Hán lập lại thực tế là duy trì chế độ nhà Tần, có bỏ bớt những điểm quá khích, về đại thể tồn tại lâu dài suốt cả lịch sử của chế độ phong kiến Trung Quốc. Nho Pháp tịnh dụng thích hợp hơn độc tôn Pháp gia vì nó đáp ứng tốt hơn yêu cầu chuyên chế và bành trướng, vì quyền lợi hoàng đế.
Hoàng đế Tần-Hán là tên độc tài tuyệt đối, tập trung trong tay mọi quyền hành chính trị, quân sự, kinh tế, tôn giáo. Nhân danh là thiên tử (con Trời), người có đức nhất, được Trời lựa chọn, giao cho ngôi báu để trị vì thiên hạ, quản lý toàn bộ ruộng đồng, núi rừng, sông biển và  chăn dắt muôn dân, những người do Trời sinh ra. Đó là cơ sở của quyền  vương hữu và chế độ thần dân hoá  toàn thể. Thiên tử độc quyền tế Trời Đất, thần núi sông và cai quản cả bách thần. Hoàng đế là người cầm đầu độc đoán về chính trị, là người duy nhất giữ quyền chỉ huy quân đội, không có ấn kiếm phù tiết của vua ban thì không điều động được quân đội. Hoàng đế là con người nắm độc quyền về chân lý, người trọng tài phân xử mọi vấn đề, kể cả các vấn đề học thuật. Đối với nhân dân, hoàng đế vừa là chúa, vừa là cha, vừa là thầy, làm chủ cả phần xác, cả phần hồn, cả phần đời, cả phần đạo, cả thân thể, cả sản phẩm lao động. Để đảm bảo sự tập trung tuyệt đối, tham lam vô độ như vậy phải tổ chức lại xã hội và chính quyền. Lãnh thổ được địa vực hoá sớm: chế độ "quận, huyện" thay thế chế độ "quốc, gia" của quý tộc phân phong. "Quận, huyện" tức là nhóm họp các công xã thị tộc lại thành đơn vị hành chánh thống nhất  của trung ương. Trên đất nước bao la, địa vực hoá quá sớm so với giao lưu kinh tế, hoàng đế phải dựa vào một bộ máy quan lại đông và một đội quân thường trực mạnh để duy trì uy quyền thống nhất. Muốn thế phải tạo ra một cơ chế xã hội, một bộ máy chính quyền được phân cấp quản lý, nhất là được quy định rõ ràng về chức phận, về các mối quan hệ, đảm bảo ưu tiên cho quyền hành không chia sẻ của hoàng đế. Sự phân chia thứ nhất là vua, tôi. Phải coi là bề tôi của hoàng đế không chỉ là dân chúng mà cả cha, mẹ, vợ con, anh em, những người cộng sự thân cận nhất. Trong đám thần dân đó  mới lại chia ra kẻ thống trị và kẻ bị trị. Thống trị là những tầng lớp giàu sang: quý tộc, quan lại. Bị trị là những dân đen, áo vải, tức là bốn hạng dân: sĩ, nông, công, thương. Do thực tế nên kinh tế và xã hội lạc hậu mà cũng là do nhu cầu quản lý của Nhà nước chuyên chế, nông dân bị buộc chặt với làng họ, cày ruộng công, nạp thuế, đi lính, đi phu cho nhà vua. Nông dân chiếm tuyệt đại bộ phận dân số và là nguồn sống của chế độ. Thủ công phần thì bị nhà nước quản chế phục vụ cho nhu cầu cung đình và quân đội, phần thì phân tán, phát triển theo nhu cầu của đám nông dân, đông nhưng nghèo khổ, thiếu sức tiêu thụ. Thương nghiệp cũng ở trong hoàn cảnh tương tự, vừa bị khinh rẻ vừa bị ức chế, cướp bóc. Chợ búa tuy phát triển rất nhiều; các đô thị cũng có khi phát triển thành sầm uất, đông dân, buôn bán thịnh vượng, nhưng về tổ chức không hình thành được các bourg phát triển tự do như ở phương Tây. Cả nước là nông thôn sống thành làng họ.
Công cụ thống trị là bộ máy quan lại và đội quân thường trực. Bộ máy quan lại có hai ban văn võ. Các quan văn võ có khi là ở triều, có khi là ở quận- tức là chia ra trung ương và địa phương- nhưng đều do hoàng đế tuyển lựa, bổ nhiệm, do đó có thể coi là nhất thể từ triều đình đến quận huyện. Ông quan là một nhân vật đặc biệt của chế độ chuyên chế của hoàng đế.
Quan là người được giao cho nhiệm vụ thay mặt vua cai trị với tư cách là làm cha, mẹ dân. Quan được lựa chọn không theo dòng máu và tài sản mà theo "đức" và "tài" (hiền, năng), theo chức mà làm việc và ăn lộc. Chức quyền không thế tập. Quan có khác với quý tộc. Quý tộc là hoàng thân, quốc thích - họ nội, họ ngoại nhà vua - và công thần. Họ được ban tước và cấp lộc điền, có thể truyền lại cho con cháu. Quan có công to cũng được ban tước, cho lộc điền mà quý tộc theo tài đức cũng được chọn làm quan. Đối với nhân dân họ là hạng giàu sang, là người quyền quý, không có gì phân biệt. Nhưng trong con mắt hoàng đế, sự phân biệt giữa quan và quý tộc-nhất là dựa vào quan hay dựa vào quý tộc-lại rất quan trọng. Muốn giữ vững ngai vàng hoàng đế phải ưu đãi quý tộc nhưng lại giao quyền và dựa vào quan.
Quan cũng khác thế hào. Trên một lãnh thổ quá lớn, nhà vua phải chấp nhận sự tồn tại của các làng xã tự trị, vì trung ương không thể với tay tới được. Chính quyền do nhà vua lựa chọn, bổ nhiệm chỉ đến cấp huyện. Làng xã có thành hoàng-thần của làng- được nhà vua công nhận mà cũng có những bậc đàn anh mà chính quyền cấp trên phải thừa nhận. Họ hoặc là tộc trưởng, hoặc là thân sỹ, hoặc là dựa vào ruộng đất hoặc là dựa vào uy thế khác mà trở thành người "kẻ cả", "đàn anh" cầm đầu, chi phối nhân dân địa phương. Có khi họ cũng là người làm việc chính quyền cấp xã. Thế hào không đồng nhất với chính quyền của vua quan. Nhân dân phải phục tùng họ mà quan trên phải nể họ.
Quan cũng khác lại. Lại là một loại công chức-đúng hơn là tay sai- giúp việc, thường là do quan chọn ở địa phương. Bọn này am hiểu thực tế địa phương, thông thạo việc giấy tờ, luật lệ, và quan trọng hơn là vì thạo việc nên cũng làm thủ đoạn gây chuyện kiếm chác, bòn rút nhân dân. Nhân dân sợ lại hơn cả quan. Quan và lại là hai mặt âm dương của bộ máy chính quyền ở địa phương. Thành phần chính thức của nhà nước là vua quan nhưng thống trị thực tế xã hội thì còn cả quý tộc, thổ hào và lại.
Để giữ ngai vàng, nhà vua cần đến những võ quan đánh dẹp, giữ gìn an ninh, nhưng nhà vua lại cần hơn những người quan văn để phủ dụ nhân dân, vừa răn đe vừa khuyên bảo, "truyền bá đức hoá" của triều đình để đốc thúc nhân dân nộp thuế, đi phu, đi lính. Quan văn đông đảo, làm những việc thiết yếu, thường xuyên của nhà nước lại đáng tin cậy hơn quan võ. Cho nên việc bồi dưỡng, đào tạo, lựa chọn lớp quan văn thành vấn đề then chốt của công việc trị nước. Điều đó làm hình thành đẳng cấp sĩ trong đám thần dân.
là những người học trò, theo nghề nghiên bút lo học, thi đỗ và làm quan. Sĩ có thể thành quan, có thể thành thân sĩ, và  nếu không đỗ đạt thì họ cũng là thầy của nông dân. Vì họ có văn hoá nên người dân ít học, từ lúc sinh đến lúc chết đều nhờ cậy  đến họ. Mới đẻ ra là nhờ họ đặt tên, lấy số, lớn lên nhờ họ dạy dỗ học hành, ốm đau nhờ họ bốc thuốc chữa bệnh, lúc chết nhờ họ tìm đất chôn cất. Những công việc như vậy ở nông thôn phương Tây là công việc của giáo sĩ. Tầng lớp sĩ vừa là đội hậu bị của bộ máy quan lại vừa làm chức năng người giáo sĩ ở nông thôn. Trong xã hội như vậy, buôn bán vẫn là nghề "nhất bản vạn lãi", người thợ thủ công vẫn kiếm ăn dễ dàng hơn người nông dân. Thế nhưng dư luận xã hội, phản ánh chính sách xã hội của hoàng đế vẫn là "nhất sĩ nhà nông". Trong xã hội chuyên chế phương Đông không có các lãnh chúa, không có đẳng cấp hiệp sĩ, không có đẳng cấp tu sĩ như trong xã hội phong kiến phương Tây. Đẳng cấp nho sĩ là  chỗ dựa xã hội cho chính quyền của hoàng đế.
Về hình thức thì đất nước của hoàng đế là một quốc gia thống nhất cao độ. Chế độ quận huyện với bộ máy quan lại cho phép hoàng đế trùm uy quyền lên cả đất nước và thần dân. Thế nhưng sự tập trung bằng cưỡng bức, vượt quá khả năng của cơ sở kinh tế lại chứa đựng nhiều thế lực phân tán. Muốn duy trì sự thống nhất, hoàng đế phải sử dụng một số chính sách có tính chất thủ đoạn giải quyết quan hệ giữa các lực lượng. Có thể nói tóm tắt là dựa vào quan lại và tầng lớp sĩ, hạn chế quý tộc và nhân nhượng với làng xã.
Đối với hoàng đế, hoàng thân, quốc thích-bà con nội, ngoại và công thần tức là quý tộc, cố nhiên  phải coi là thân cận nhất. Thế nhưng đó cũng là những người đáng nghi ngại nhất. Ở Trung Quốc có những lý do lịch sử làm cho họ hàng có vai trò rất quan trọng. Không ở đâu như ở đây quan hệ họ hàng nội ngoại với đủ tình nghĩa và trách nhiệm được quy định rành mạch, có thứ bậc cụ thể đến thế. Từ đời xa xưa, người ta đã giải thích ngôi vua là do mệnh trời giao cho người có đức, nhưng có đức trước hết lại là người có hiếu, biết yêu quý giòng họ. Thiên tử có trách nhiệm làm cho người thân được tôn quý và giàu sang. Mệnh trời chỉ là cái chiêu bài, còn bản thân hoàng đế thì biết rõ là nhờ "ngồi trên lưng ngựa", hay nói theo cách ngày nay là "từ đầu mũi súng" mà có. Công lao cầm gươm, mang cung đâu chỉ là của  một mình hoàng đế hay con em hoàng đế. Đó là một sự cướp giật. Hoàng đế ở vào vị thế phải thấy quý tộc coi mình là kẻ cướp công lao, và quý tộc là lực lượng có khả năng nhất để cướp giật lại. Từ đời Chu, Chu Công Đán đã bị nghi oan là có âm mưu cướp ngôi cháu. Hàn Phi, ông tổ của Pháp gia đã phân tích cái thế của "trọng nhân", đã phát hiện ra sự tính toán của hoàng hậu thích sống với một hoàng đế là con hơn là một hoàng đế là chồng. Làm hoàng hậu ở vào cảnh nhan sắc đã phai nhạt mà phải cạnh tranh với các phi tần trẻ và đẹp hơn thì sao yên vui bằng làm hoàng thái hậu có uy quyền chắc chắn, thiếu gì cách bù đắp những chỗ thiếu thốn. Cho nên cũng từ đời Tần, hoàng đế đã nghe theo Pháp gia cảnh giác với quý tộc, không dùng người trong họ làm tể tướng, ít có tể tướng  được để về hưu, sống trọn đời. Những công thần của Hán cao tổ trước sau đều bị giết, các thân vương lúc đầu được phong giữ nước riêng nhưng đến đời Hán Võ đế - tức là lúc chế độ chuyên chế được hoàn thiện - thì đều bị tiêu diệt hết. Quý tộc các triều đại sau tuy cũng được phong tước vương, tước công của nước này, nước nọ nhưng đó chỉ là về danh nghĩa. Thực tế họ không có lãnh địa, không có quân đội và không giữ quyền tư pháp. Ngay cả lộc điền cũng cấp phân tán ở nhiều nơi, tước lộc hết đời là phải khai báo để xét phong lại cho con cháu, và phong có rút bớt. Có thể nói đối với quý tộc,  hoàng đế  cho hưởng vinh hoa nhưng tìm mọi cách giám sát, hạn chế thực quyền không cho phép phát triển thành thế lực lớn. Gặp những lúc loạn lạc, nhà vua không thể không giao quyền cho các võ tướng, phải cho họ quyền hành rộng rãi và ban thưởng tước lộc hậu hĩnh. Những thứ sử đời Hán, Tiết độ sứ đời Đường thực chất là các lãnh chúa địa phương, nhiều khi cha truyền con nối nhưng về danh nghĩa vẫn phải coi là quan của triều đình.
Hoàng đế có thể hạn chế được các thế lực đủ sức nhòm ngó ngai vàng nhưng cũng không có thể tập trung mọi quyền hành trong cả nước. Đối với số làng xã quá lớn và quá phân tán, với số nhân dân  sống theo  làng họ, nhà vua không thể trực tiếp nắm chắc để vắt kiệt như các lãnh chúa đối với  lãnh địa nhỏ. Hoàng đế phải chịu bóc lột vừa phải, cố gắng duy trì cảnh an cư lạc nghiệp, không để dân đến nỗi xiêu tán. Ruộng đất về danh nghĩa là của vua, nhưng nhà vua phải chịu duy trì chế độ công điền thuộc làng xã, để cho làng xã quân  cấp, tự chia nhau cày cấy, để người dân cày ruộng làm nhiệm vụ nộp thuế, đi phu, đi lính, đóng góp cho nhà nước thay cho địa tô. Lệ làng-có khi trái phép vua-được chấp nhận  và vai trò của các bô lão, các bậc đàn anh trong làng-thổ hào- cũng được mặc nhiên thừa nhận. Muốn cho nông dân an cư tức là không bỏ làng đi nơi khác kiếm ăn thì cột chặt họ vào ruộng công, vào hộ tịch chính quán, không cho họ trốn nhiệm vụ đóng góp. Thổ hào cùng với lý hương chịu trách nhiệm với nhà nước về tình trạng "an cư lạc nghiêp" như vậy của địa phương. Chính sách của hoàng đế đối với làng xã nói chung có thể nói là nhân nhượng, cố giữ tiếng khoan huệ, nhân hậu, vừa phải hạn chế nhưng cũng lại phải tranh thủ đám thổ hào. Thổ hào ít có khả năng trành giành ngôi vua nhưng lại rất dễ chiếm đoạt ruộng công và giành giật, lôi kéo sức lao động của thần dân, tức là trực tiếp xâm phạm lợi ích của vua. Cấm chấp chiếm ruộng công, hạn điền, hạn nô chính là nhắm vào họ.
Chỗ dựa đáng tin cậy của nhà vua chỉ có quan lại và kẻ sĩ. Với chế độ ruộng đất và các lực lượng xã hội như vậy, không ai quan tâm, không ai có khả năng cải tiến nền sản xuất, dầu là bằng tổ chức lao động hay bằng kỹ thuật. Vua quan không quản lý được; quý tộc không lãnh ấp riêng; nông dân với chế độ công điền quân cấp, không thể đầu tư tái sản xuất. Công điền cũng lại là cái biên giới tự nhiên ngăn cản địa chủ mở rộng ruộng đất tư hữu ở quy mô to lớn đáng kể.
Sản xuất nông nghiệp bị hãm trong tình trạng tự nhiên, thủ công nghiệp trong mức  cung ứng nhu cầu  thấp của dân dăm ba làng  xã lân cận, thương nghiệp trong mức chợ búa, không tạo thành nền kinh tế hàng hoá phát triển, không làm xuất hiện thành thị công thương nghiệp đủ phát triển để thành tư bản chủ nghĩa. Nền kinh tế như thế không đưa người dân ra khỏi cái nghèo truyền kiếp. Người dân nay có gặp lúc thái bình, làm ăn no đủ thì cũng lại yên vui trong cảnh trời đất nhỏ hẹp cua mình, họ vun vén để giữ yên nó chứ không ước được cái gì cao xa hơn.
Chế độ chuyên chế tạo ra tình hình đó và tình hình đó là miếng đất thuận lợi nhất cho chế độ chuyên chế tồn tại.
Chế độ chuyên chế tồn tại dựa vào quyền vương hữu. Đó cũng là một hình thức sở hữu. Thế nhưng quyền sở hữu tất cả của chỉ một người như vậy chỉ có thể có hiệu lực với danh nghĩa nhà nước  và duy trì trong thực tế bằng uy quyền chính trị và bằng lừa gạt có tính tôn giáo. Với danh nghĩa thiên tử, hoàng đế độc quyền thu và phân phối tô thuế cả nước. Ngoài phần chi tiêu có tính chất công ích và chi dùng riêng cho nhà vua, tô thuế thành bổng lộc để nhà vua chia cho quý tộc và quan lại theo tước vị. Thế là cả xã hội có thu nhập định lượng. Nhân dân ít có khả năng mở rộng nguồn thu nhập. Quan lại, quý tộc hưởng bổng lộc định ngạch. Mỗi người đều có vị và và có phận. Nhà nho mong ước qua cách phân phối đó mà tạo ra cái "quân" cái "bình", tức là sự thăng bằng hợp lý trong xã hội. Mạnh tử nói: “Vua có một vạn thì (khanh đại phu) có một ngàn; khanh đại phu có một ngàn thì sĩ có một trăm. Như thế không phải là không nhiều". Trong xã hội chia ra nhiều bậc kẻ dưới  có 1/10 của người trên trực tiếp là quân bình. Quân bình trong quan niệm của Khổng Tử “Không lo ít mà lo không quân bình” là như vậy. Tất nhiên, tất cả các thế lực khác nhau đều muốn giành được nhiều hơn mức quân bình ấy. Thế nhưng không ai dám chống lại vì không ai có đủ lực lượng lượng để phá vỡ nó. Cái "quân bình” có lợi cho chế độ chuyên chế như vậy có một điều nghịch lý: người dân là kẻ bị hoàng đế áp bức bóc lột nhưng lại là đồng minh của hoàng đế. Nhà vua dùng công điền cột chặt người dân trong làng xã để họ làm nghĩa vụ  thần tử nhưng người dân lại cảm ơn vua cho họ ruộng đất. Nhà vua giữ gìn ruộng đất và thần dân để bảo vệ nguồn thu nhập tô thuế, không để lọt vào tay quý tộc, thổ hào thì người dân lại coi đó là bênh vực họ chống lại những người bóc lột trực tiếp - những người vì muốn mở rộng quyền lợi thế lực ngoài  phận nên bóc lột không định ngạch và nặng. Nông dân thích một ông vua chuyên chế như vậy hơn là các lãnh chúa cát cứ. Chế độ chuyên chế của hoàng đế Trung Quốc nhìn bề ngoài rất tập trung nhưng thực chất là rất phân tán, phân tán hơn cả chế độ lãnh chúa. Đó là một xã hội chia ra đẳng cấp theo danh vị và sống bằng danh vị. Sở hữu kinh tế tuỳ thuộc vào danh vị, không có ý nghĩa quyết định bằng chức vị, danh phận chính trị, xã hội.
Nhìn Trung Quốc không thể chỉ nhìn đó là một quốc gia mênh mông, tổ chức thành châu quận, có triều đình và bộ máy quan lại tổ chức chu đáo đến tận các địa phương mà phải nhìn cả các làng xã bao gồm các họ. Không chỉ có một nhân vật kỳ lạ thiên tử tập trung hết mọi quyền hành trong tay, mà còn có cả những quan văn, số đông thì chỉ biết làm văn chương, cầm hạc, tiêu dao nhưng có những tể tướng bụng chứa nhiều mưu kế quỷ quyệt; có cả những quan võ trở thành quân phiệt xưng hùng xưng bá từng vùng. Và ở làng xã có những hào cường, liệt thân, những tên lại làm thầy cò xui nguyên dục bị. Tất cả những cái đó mới làm nên bộ mặt của xã hội chuyên chế vì là sản phẩm tất yếu của chế độ chuyên chế. Tư tưởng Nho gia và Pháp gia ra đời trên cơ sở chế độ chuyên chế đó và bảo vệ tích cực chế độc chuyên chế đó. Không phải tất cả những cái vừa nói đã có đủ khi Nho gia và Pháp gia ra đời. Nói cho đúng lúc đó ngay cả chế độ chuyên chế cũng chưa có, người tiêu biểu cho chế độ đó là hoàng đế cũng chưa ra đời. Thời Xuân  thu - Chiến Quốc, lúc chế độ "quốc, gia" nhà Chu tan rã, lúc xuất hiện Ngũ bá, Thất hùng, điều đó mới chỉ là khả năng. Chính Pháp gia đã xây dựng nên chế độ chuyên chế của hoàng đế. Và lại chính là Nho gia, kẻ thù của nó đã hoàn thiện chế độ đó. Các hoàng đế nhà Hán, nhất là Hán Võ đế, đã tìm ra cách sắp xếp các lực lượng và tổ chức phân phối tạo ra thế bền vững, lâu dài, không những vì tranh thủ được dân đứng về phía hoàng đế chống lại mọi thế lực cát cứ mà quan trọng hơn là ngăn chặn không để phát sinh lực lượng đối lập đáng kể (lực lượng thành thị) để thủ tiêu chế độ đó.
Trung Quốc từ đời Ân, Chu đã hình thành cục diện thống nhất. Từ bộ lạc đến liên minh bộ lạc, đến thành lập quốc gia nô lệ, nước Trung Quốc xưa đã dùng quan hệ họ hàng để cố kết các "quốc", "gia" trong vương triều do Đế hay Thiên tử - cũng là tộc trưởng - Đại tôn - đứng đầu. Đến thời Xuân thu - Chiến quốc cục diện thống nhất như vậy bị phá vỡ, phá vỡ vì sự sắp xếp theo lễ tôn tộc và phân phong không còn được các "quốc" "gia" tôn trọng; chiến tranh “kiêm tính”[2] nổ ra. Qua năm thế kỷ chiến tranh liên miên, cục diện thống nhất lại lập lại vào thời Tần, Hán, nhưng là với một vị hòang đế đứng đầu. Hoàng đế Tần Hán thay cho vương chế Ân, Chu.
Nho gia và Pháp gia đều bảo vệ truyền thống thống nhất. Nhưng Nho gia muốn khôi phục vương chế. Vương theo Nho gia, là một ông vua chung của cả thiên hạ, cai trị theo mệnh trời, dựa vào họ hàng, cố cựu, cai trị theo Lễ và bằng Đức. Thiên tử phong tước cho con cháu và người hiền năng tạo ra trật tự theo phân phong (thiên tử và các bậc chư hầu) thân sơ (quan hệ họ hàng) và đẳng cấp (quân tử, tiểu nhân tức là tầng lớp thống trị và dân lao động). Căn cứ vào sự sắp xếp như vậy mà mọi người có vị có phận; trong xã hội có trật tự, có sự quân bình và hoà mục. Mọi người tôn trọng ngôi vua chính thống, tôn trọng trật tự của phận vị, yên phận theo mệnh, thờ vua theo nghĩa, theo lễ với tình  cảm hiếu kính như con đối với cha mẹ. Nho gia chống hành động tranh giành, “tiếm việt”, tức là tìm cách kiếm giàu sang quá mệnh, vị. Điều đó chủ yếu là nhằm ngăn ngừa các vua chư hầu, các khanh, đại phu, tức là lớp quý tộc có phong ấp lúc đó. Nho gia cũng nhấn mạnh vua phải thương dân, dùng kẻ thiên tài, tôn trọng kẻ sĩ tức là đòi hỏi nhân nhượng với lực lượng làng xã, trước hết là từng lớp sĩ quân tử, đội hậu bị của tầng lớp quan lại.
Pháp gia ra đời trong giai đoạn thế lực lớp khanh đại phu chư hầu đời Chiến quốc đã mạnh, muốn giành nhau làm chủ cả thiên hạ. Ngôi vua ra đời sau cuộc chiến tranh thất hùng là hoàng đế. Danh hiệu hoàng đế tuy mới chính thức dùng từ Tần Thuỷ Hoàng nhưng quan niệm một ông vua kiểu hoàng đế thì đã có từ khi Thương Ưởng giúp Hiếu công triệt hạ thế lực quý tộc và vai trò của gia trưởng ở làng xã, hay chậm hơn một ít nữa là từ khi nước Tần thi hành chế độ quận huyện. Thương Ưởng chủ trương dùng lực lượng kinh tế và quân sự (phú, quốc, cường, binh) và giành lấy thiên hạ. Muốn làm cho nước Tần giàu mạnh, vua Tần tập trung được mọi lực lượng vào chiến tranh, Thương Ưởng triệt hạ uy thế của quý tộc, tách người dân ra khỏi sự kiềm chế của tộc trưởng, kha lão[3] ở làng xã làm cho mỗi người với vợ con ở thành hộ (cưỡng bức, tảo hôn và ra ở riêng) theo vua cày ruộng và đánh giặc (canh chiến) mà lập công. Có công thì có tước, có vị, có lộc. Vua nắm lấy mọi quyền hành, không chia cho họ hàng và người thân cận: vua dựa vào “vị”, giữ lấy "thế", nắm lấy "quyền" sinh sát, "thưởng phạt", quy định ý chí của mình thành "pháp độ" dùng "thuật" mà bắt mọi người ra sức thi hành, dùng bạo lực mà mở rộng quyền thế. Với dân vua không phải là cha mẹ mà là chúa, không đối xử bằng tình nghĩa, ân huệ mà bằng thưởng phạt cưỡng bức. Chỗ dựa của hoàng đế là quan lại là quân đội chứ không phải họ hàng người cố cựu. Có thể nói đó là hai quan niệm đối lập về ông vua. Tuy vậy nên chú ý là cả hai đều chủ trương chỉ một thiên tử toàn quyền trị thiên hạ. Một bên chủ trương “việc lễ nhạc, đánh dẹp do thiên tử quyết định” và “dân thường không được bàn bạc” (Nho) và một bên "giữ lấy thế" “không đưa quyền bính cho ai” (Pháp). Một bên coi dân là trẻ thơ (xích tử) không đủ nhân cách (Nho) và một bên coi dân là trâu ngựa không có nhân cách (Pháp). Cả hai đều đòi hỏi người dân trung thành, phục tùng, tôn trọng sự chuyên chế của thiên tử, dầu đó là ông chúa quyền thế hay ông cha được Trời uỷ nhiệm. Chỗ khác nhau chỉ là ở việc thực hiện quyền hành tổ chức sắp xếp các lực lượng, cách giải quyết quan hệ giữa các lực lượng. Đối tượng được lưu ý là họ hàng, người cố cựu tức quý tộc và làng xã bao gồm cả dân và những người đàn anh. Một bên nô dịch triệt để, không thừa nhận một sự chia sẽ quyền lực nào và một bên là hạn chế và nhân nhượng (định phận).
Chỉ dựa vào quan lại và quân đội, không có một lực lượng xã hội làm chỗ dựa, trong điều kiện nền kinh tế chỉ là nông nghiệp phân tán, Hoàng đế nhà Tần giành được thiên hạ nhưng không thể duy trì được sự thống trị tham tàn trên thiên hạ quá rộng lớn. Quý tộc và làng xã có dịp là chống lại. Trong cuộc chiến tranh Hán Sở đánh Tần rồi giành nhau thiên hạ,Trương Lương đã hiểu ra điều đó. Theo kế hoạch của Trương Lương, Lưu Bang phong đất rộng rãi cho quý tộc chống Tần, đặt ba điều ước đơn giản thay cho các luật pháp phiền hà, khôi phục vị trí của “tam lão[4] ở làng xã và dùng cỗ  thái lao[5] tế Khổng Tử. Chính sách tranh thủ đám quý tộc lục quốc, nhân nhượng với làng xã, tôn trọng tầng lớp sĩ như vậy đã làm cho Lưu Bang, tuy thế lực yếu hơn Hạng Võ mà lại thắng Hạng Võ.
Chế độ chuyên chế của hoàng đế nhà Tần cực kỳ tàn bạo nhưng về mặt tiến hoá của lịch sử , so với Vương chế Ân, Chu lại là một sự tiến bộ. Nó phá vỡ cơ sở công xã thị tộc để hoàn thành việc xây dựng quốc gia nô lệ làm hình thành đế chế. Nếu tiếp tục phát triển thì khi đế chế tan rã, sẽ hình thành chế độ phong kiến lãnh chúa, theo đúng con đường chính thường của lịch sử loài người. Nhà Hán đã chống Tần với lý do nhà Tần tham lam tàn bạo. Nhưng khi đã giành được thiên hạ, nó không từ bỏ những tham vọng của hoàng đế nhà Tần. Tiêu Hà, tướng quốc của Lưu Bang vẫn căn cứ vào luật pháp của nhà Tần để trị nước. Các quý tộc, công thần lúc đầu đều được phong tước, ruộng đất nhưng sau một thời gian ngắn, lần lượt bị diệt, chế độ châu quận lại được khôi phục. Chỗ khác nhau chỉ là chính sách nhân nhượng với làng xã và phát triển tầng lớp sĩ làm lực lượng xã hội bảo vệ ngôi hoàng đế. Làm như thế nhà Hán đã duy trì tàn tích công xã, tạo ra thế giằng co có tác dụng kìm hãm sự phân hoá, phân giải nên đế chế nhà Hán trở thành trường thọ. Đế chế kiểu nhà Hán là chỗ dừng lại của ba xu thế khác nhau:
- Hoàng đế tham vọng vô độ, nắm hết cả vào trong tay một thiên hạ quá lớn mà không đủ sức độc quyền khai thác để vơ vét.
- Nhân dân trong làng-họ còn khá nguyên thuỷ chưa có nhu cầu nào hơn là được an cư lạc nghiệp trong khung cảnh sống nhỏ hẹp đó;
- Quý tộc và thổ hào tuy không kém tham tàn so với hoàng đế nhưng bị hạn chế từ hai phía nên không thể phát triển được.
Đó là mảnh đất hoãn xung cho các thế lực yếu, không thanh toán được lực lượng để phát triển. Các thế lực phân tán yếu nhưng hoàng đế cũng bất lực.
Chủ trương Nho Pháp tịnh dụng phản ảnh thực tế đó. Hán Võ đế đã biết lợi dụng cái thế đó và sử dụng cả Nho cả Pháp phục vụ cho quyền lợi của hoàng đế. Ngoài là nói "độc tôn Nho thuật" lên án Pháp gia, nhưng bên trong lặng lẽ dùng luật pháp theo tinh thần Pháp gia để trị nước. Theo Nho, đề cao nhân nghĩa, chống tham bạo cũng không phải là chọn cách cai trị nhân đạo hơn mà thực tế là vì yếu nên phải nhân nhượng và hơn thế, che dấu sự tàn bạo bằng lời nhân nghĩa giả dối.

II. Tư tưởng Nho gia và Pháp gia phục vụ cho chính sách bành trướng thiên triều

Chế độ chuyên chế muốn thiết lập một trật tự xã hội chặt chẽ và bền vững. Nó quy định cho mỗi người một phận, một vị, theo nhu cầu lợi ích của hoàng đế rồi vừa dùng pháp độ vừa dùng lễ vừa dùng giáo hoá để duy trì. Có vị là có danh. Căn cứ vào danh mà có quyền, có uy, có lợi. Lợi là lộc vua ban, thế nhưng đó chỉ là phần nhỏ, phần danh nghĩa. Phần quan trọng hơn là “bổng ngoại”, thu nhập của biếu xén siêu kinh tế dựa vào danh, vào uy, vào thủ đoạn chứ không chỉ theo phận. Mọi con đường phát triển khác đều cắt cụt chỉ chừa lại một lối thông thoáng: cầu danh, lập công, phục vụ hoàng đế trong bộ máy quan lại và quân sự. Đi học, thi đỗ, làm quan văn hay luyện tập võ nghệ cũng thi đỗ làm quan võ. Đó là con đường tiến thân, lập nghiệp. Chính xã hội sống bằng danh vị như vậy mới làm con người hiếu học và chỉ lo dùi mài kinh sử, không ham tìm tòi hiểu biết thế giới khách quan, không chuộng khoa học kỹ thuật, cường điệu tu dưỡng và lại không suy nghĩ nhiều về nhân cách. Tri thức hay đạo đức cũng chỉ là nhằm lọt vào cửa làm quan. Cũng chính xã hội như vậy mới đẻ ra thói bảo vệ danh vị, bảo vệ uy tín, và giành giật nó bằng mọi thủ đoạn. Nó cũng đẻ ra cả những hiện tượng quái gở: sính làm kẻ cả, thích có danh vị, kể cả bằng con đường mua quan bán tước và cả bằng thủ đoạn côn đồ. Không phải chỉ thần dân mới sống bằng danh vị, cả hoàng đế, người ban phát danh vị cũng sống bằng danh vị. Ông vua là người giàu nhất vì có cả thiên hạ. Thế nhưng uy quyền thực tế không phải có được từ cái sở hữu không thực tế đó mà từ ngôi vua, một thứ danh vị, được đảm bảo bằng sự lừa dối tôn giáo (thiên mệnh) bằng danh nghĩa chính quyền và bảo vệ bằng bạo lực quân sự và chính trị. Ôm lấy một thiên hạ quá lớn, ngoài khả năng tổ chức quản lý của một tên độc tài, hết giai đoạn đánh dẹp để cướp thiên hạ thiên tử chỉ cầu mong có được cảnh "bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng", chỉ mong êm ấm, ít xáo trộn để rủ áo hưởng thái bình. Muốn thế phải đảo lộn được uy danh, làm cho trong nước và ngoài nước tôn trọng ngôi vua. Sự đình đốn có khi không phải là điều đáng lo mà ngược lại có khi lại là cảnh thái bình đáng mừng. Tuy vậy làm sao  có được cảnh mọi người yên phận cho nhà vua thái bình. Tô thuế nhà vua đã thu hết, bổng lộc nhà vua ban phát cho quí tộc, quan lại và phần giành cho thổ hào vốn đạm bạc. Họ đâu chịu ngồi yên mà không giành giật thêm. Thế là thổ hào chấp chiếm cả ruộng công, bắt dân phục dịch vô độ. Biên thần, võ tướng cát cứ cắt xén phần nộp lên triều đình. Quan lại xà xẻo, ăn hối lộ, kiếm bổng hậu bù vào lộc bạc. Bọn sai nha xui nguyên dục bị, quấy rối để kiếm chác. Nông dân bị cột chặt vào làng họ, vào ruộng đất, bị áp bức bóc lột cùng cực, đã an phận cam chịu hết sức, đổi bằng mọi giá đắt để lấy cảnh an cư lạc nghiệp mà cũng không được. Chỉ cần hoặc là hào cường chiếm ruộng công, chiến tranh cát cứ, hoặc gặp cảnh kiện tụng là họ phải bỏ quê hương lang thang kiếm ăn.  Nếu lại gặp năm mất mùa hay chiến tranh cản trở đi lại  là hàng loạt cùng dân bị đẩy vào chỗ hết đường sống. Trong tình hình đó, nếu có người “đàn anh” hào kiệt, giỏi giang-có sức khỏe, có mưu trí, có can đảm- đứng ra tập hợp và lại có sông, hồ, núi, rừng, bãi rậm làm chỗ ẩn nấp thuận tiện là nổ ra “khởi nghĩa nông dân”.
Những cuộc khởi nghĩa nông dân như vậy thường bắt đầu bằng việc kết nghĩa anh em, đùm bọc, cưu mang, che chở cho nhau trong khi trốn tránh, rồi lớn lên thành những cánh cướp nhỏ và cuối cùng lập sơn trại, thuỷ trại thành những đội quân thổ phỉ, đánh phá các địa phương, có khi chống cả quân đội triều đình. Những cuộc khởi nghĩa như vậy nổ ra khá sớm- từ đời Hán- và nổ ra rất nhiều, tính có đến hàng mấy ngàn, hầu như không ngớt, không nơi này thì nơi khác. Khẩu hiệu của các cuộc khởi nghĩa đó thường phản ánh tư tưởng: bình quân chủ nghĩa, mong ước thái bình của nông dân, nhưng không nêu ra yêu cầu ruộng đất. Đối tượng đấu tranh của các cuộc khởi nghĩa vẫn chỉ là hào cường, quan lại địa phương. Tuy có lúc phát triển đến quy mô cực rộng rãi, giương cả ngọn cờ "đại thiên hành hoá", tức là không thừa nhận triều đại đang cầm quyền thì cũng chỉ đòi hỏi một vị Hoàng đế sáng suốt, nhân từ, giữ cho họ việc quân cấp công điền và cuộc sống làng họ yên ổn chứ không nhằm thay đổi chế độ chuyên chế. Điều quan trọng là trong những cuộc khởi nghĩa quy mô rộng lớn như vậy, khẩu hiệu chính trị thường do đám “đàn anh” biết lợi dụng tình thế, lôi kéo nông dân đề ra chứ không phải là do chính nông dân đề ra. Những cuộc khởi nghĩa nông dân như vậy tuy có nhiều và gây ra đảo lộn trong xã hội nhưng chưa hẳn đã có những tác dụng tích cực đối với lịch sử như Mao Trạch Đông gán cho nó.
Khởi nghĩa nông dân là dịp cho các võ tướng đem quân ra ngoài trấn nhậm cướp bóc và lập công. Thế là cường hào quan lại bóc lột đẩy đến nông dân khởi nghĩa và nông dân khởi nghĩa đẩy đến quân phiệt cát cứ. Đất nước luôn luôn có mặt hào cường, thổ phỉ và quân phiệt. Cả ba gây ra cảnh rối loạn của đất nước, cảnh khổ cực của nông dân và cũng uy hiếp cả ngôi vua. Chế độ chuyên chế không có cách gì khắc phục vòng luẩn quẩn đó. Hoàng đế chỉ có thể dùng cái ăn uy hiếp bắt mọi người tôn trọng ngôi vua, bảo vệ danh nghĩa và uy thế của ngôi vua mà duy trì quyền áp bức bóc lột. Một mặt nhà vua dùng ân huệ để liên kết đám quân lại, dùng vinh hoa đó mua chuộc đám quý tộc, hào trưởng. Thế là dùng ân dùng đức. Mặt khác trừng phạt cực nặng những ai dám coi thường thiên mệnh, thiên chức, uy quyền nhà vua. Thế là ra uy. Đối với dân Hoàng đế cũng dùng ân- uy: cái uy thường trực làm họ thành quen sợ phép nước và cái ân làm họ xúc động khi gặp cảnh cùng khốn quá hay khi gặp những dịp vui của nhà vua, hoàng đế giảm thuế, miễn thuế hay phát chẩn cứu tế. Đó là cách dùng thuật bảo vệ uy thế và duy trì tình trạng giằng co giữa các thế lực.
Xâm lược nước láng giềng là cách kiếm thêm lợi, nhưng chủ yếu là để tăng thêm uy thế. Đánh là cướp bóc mà cũng là để đòi thêm cống nạp. Nhưng đánh cũng là để ra oai, tỏ ra còn đủ sức trừng phạt những ai lăm le, chống đối. Cho nên nhiều khi đánh là để mua danh. Sự thuần phục của chư hầu- nhiều khi chỉ là về danh nghĩa- cũng tăng thêm uy thế đối nội và đối ngoại, cứu vớt được thế suy sụp. Đó là con đường “lấy ngoài yên trong” của hoàng đế. Xâm lược cũng là con đường lập công của võ tướng biên thần. Nói chung thì hoàng đế thường quý trọng quan văn hơn quan võ, những kẻ chăn dân- theo dõi, giữ trật tự, đôn đốc tô thuế, bắt phu, bắt lính- tức là những công việc có ý nghĩa sinh tử của ngôi vua, không tốn nhiều bổng lộc, không có khả năng cạnh tranh đáng kể tất nhiên thành chỗ dựa đáng tin cậy. Quan võ bình thường chỉ là một loại hầu cận nhưng quan võ lại có thể lập công đột xuất. Pháp luật đã quy định không có quân công thì không được phong hầu. Đối với quan võ đánh dẹp là cơ hội để cướp bóc, để làm giàu, và cũng là cơ hội lập chiến công mà giành tước cao, thưởng hậu. Cả một đám quý tộc, quan lại đều tham lam, đều bị kìm hãm, đều muốn giành danh vị, lợi lộc, uy quyền nhưng không dám tham vọng dòm ngó ngôi vua nên đều lợi dụng tham vọng của hoàng đế để cầu công. Dẹp loạn, xâm lược là dịp lập công béo bở nhất. Vua cần uy danh gặp văn võ tham công tạo ra tính hiếu chiến. Mâu thuẫn nội bộ chuyển thành mâu thuẫn với bên ngoài.
Khả năng gây chiến như thế lại nhờ cơ sở kinh tế- xã hội của chế độ chuyên chế mà dễ dàng thành chiến tranh thực tế. Với chế độ chuyên chế một mặt là lãnh thổ quốc gia thống nhất và mặt khác làng xã thành đơn vị cơ sở tổ chức chặt chẽ. Nhà vua có thuận lợi trong việc trưng binh, thu lương, huy động dân phu. Vốn sẵn có một đội quân thường trực đông, lúc có chiến tranh, giao cho quan lại địa phương bắt thêm phu, lính ở làng xã không khó khăn như điều động nhân lực của các lãnh chúa. Triều đình lại có kho lẫm sẵn ở các đầu mối giao thông, trưng lương ở các địa phương, vận lương qua các địa phương không gặp cản trở  như qua các lãnh ấp thuộc các lãnh chúa phong kiến. Nhân dân đều không tán thành chiến tranh nhưng sống phân tán, cô lập ra từng làng xã, lại quen cam chịu làm nghĩa vụ với vua nên không thành sức mạnh cản trở có hiệu quả. Chế độ chuyên chế không những dễ gây ra tham vọng cho vua quan mà lại tạo ra điều kiện để tiến hành chiến tranh. Thế là với một nước lớn, đông dân, nằm giữa nhiều nước láng giềng nhỏ yếu hơn, mỗi một triều đại vừa lên là đã xâm lược, mà lúc suy yếu lại cũng xâm lược. Lúc đầu sung sức, nó xâm lược để bắt các nước láng giềng thừa nhận “thiên mệnh” thậm chí là ra oai trước để  đảm bảo cho con cháu; lúc suy yếu nó đánh để xác nhận uy quyền, đề cao uy tín, cảnh cáo các thế lực dám khinh nhờn, chống đối nó ở bên trong hay bên ngoài. Chiến tranh xâm lược trở thành một thói quen, có khi là chủ động, có khi là bị động, có khi là do hoàng đế “nổi giận”, có khi là do biên thần gây sự, xúc xiểm, có khi là vì ngoài, có khi là vì trong. Đánh để cướp bóc, đánh để trả thù, đánh để vớt vát uy tín.
Sùng bái bạo lực, sùng bái chiến tranh là Pháp gia. Học thuyết của họ đề xướng nguyên tắc trọng lợi chứ không trọng nghĩa, chuộng sức mạnh phú quốc cường binh mà cướp lấy thiên hạ chứ không chuộng đức. Họ chủ trương làm cho dân ngu, biết sợ, nghe theo mệnh lệnh, tuân lời quan lại, ra trận thì dũng cảm nhưng ở với nhau thì nhút nhát, không dám tranh giành. Xã hội tổ chức thành nhóm hộ (bảo) năm nhà hay mười nhà, giám sát nhau chặt chẽ, biến thành một khối, một công cụ mạnh, chỉ biết chờ lệnh hoàng đế cày ruộng đánh giặc. Xã hội canh chiến (cày ruộng đánh giặc)với những người dân bị làm cho ngu muội, bị quản chế chặt chẽ, chỉ biết ăn no đánh khoẻ, tức là một xã hội quân sự hoá, đó là nước Tần mà Thương Ưởng đã tổ chức làm vốn cho sự hùng cường, sự hưng thịnh dẫn đến đế chế Tần Thuỷ Hoàng.
Nền tảng của xã hội canh chiến là con người “tự vị”, là những vị hoàng đế chuyên đoán độc tài, là quan hệ mua bán giữa hoàng đế và thần dân. Bản tính con người, theo Pháp gia, không phải là vốn thiện, có xu hướng vươn đến cái thiện như lời Khổng Mạnh ; nó cũng không phải là “vị ngã” chỉ lo giữ gìn sinh mệnh và lạc thú của thân mình từ đó mà có thái độ xa lánh đi đến phi chính trị, phi xã hội như Đạo gia. “Tự vị” cũng là vì mình, mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình nhưng hạnh phúc là ăn no mặc đẹp, là giàu sang không cần đạo đức, không cần cái vui cái đẹp tinh thần. Bản tính tự vị của con người, như cách Pháp gia hiểu, là thói vị kỷ, là xu hướng đòi thoả mãn những dục vọng tầm thường theo bản năng của con người trong cuộc sống còn dã man, chưa có đòi hỏi văn hoá nhưng lại sợ phép nước, gắn bó với vua – hay là quây lại thành bầy cho họ biết vua quan – chứ không phi xã hội, phi chính trị .
Vua chuyên đoán ý thức đầy đủ mình là chủ đất nước và thần dân, có quyền hành vô hạn, biết lợi dụng “thế”, “vị”, tức là ngôi vua của mình và tính “tự vị”  của thần dân, quy định ý muốn thành “pháp độ” dùng thưởng hậu phạt nặng để kích thích, đưa thần dân thực hiện ý chí của mình làm cho mọi hoạt động của xã hội rút lại chỉ còn là canh chiến để phú cường, mở rộng quyền lực.
Giữa vua và dân là quan hệ chủ tớ, là quan hệ mua bán, thuê mướn “vua bán quan tước, tôi bán tài năng”, còn dân thì theo pháp độ mà nhận thưởng hay lãnh phạt. Hình phạt có mục đích khủng bố “tội nhẹ mà phạt nặng, thì không ai dám phạm tội nặng”. Vua cần làm cho dân sợ mà khép vào kỷ luật chứ không cần dân mến dân thương. Theo Pháp gia thì tình nghĩa, ân đức không những là hỏng việc trị nước mà còn làm hỏng cả con người. Lòng từ  ái của bà mẹ  chỉ làm con hư, sự nghiêm khắc của ông bố mới làm con  ngoan  ngoãn. Nổi bật trong tinh thần của Pháp gia là tính vô nhân đạo, là tinh thần bài văn hoá. Pháp gia coi con người là súc vật, là công cụ, và tìm mọi cách để biến con người thành súc vật, thành công cụ. Nước Tần tổ chức theo Pháp gia kiếm cớ gây chiến với tất cả mọi nước, đối xử với các nước láng giềng bằng những thủ đoạn lừa dối trơ tráo nhất (xem các truyện Trương Nghi, Phạm Thư trong Sử ký ) bằng những thái độ hống hách láo xược nhất  xem các truyện đòi  ngọc bích nước Triệu, đòi Thái tử Đan sang Tần…)
Trung Quốc từ đời Ân, Chu đã quen cách đi chiếm đất rồi sai người đồng tông mang dân đến xây thành lập quốc, làm phên dậu cho thiên tử - đại tông. Chính sách di dân và đồng hoá đó được Tần áp dụng quy mô lớn bằng cách đưa người vào ở chung với Hung nô, ở chung với Bách Việt ngoài Ngũ lĩnh. Từ đời Hán chính sách đó càng được áp dụng liên tục. Từ đời Tần Trung Quốc đã trở thành một đế chế rất lớn. Về sau đời Hán, đời Đường, đời Minh đế chế còn lớn hơn. Tham vọng của hoàng đế từ Tần Thuỷ hoàng – hoàng đế số một – cũng càng ngày càng lớn hơn. Thế nhưng trong lịch sử Trung Quốc, tư tưởng Pháp gia chỉ được đề cao dưới triều nhà Tần. Các đời sau đều “độc tôn Nho thuật”, ít ra là trong phạm vi chính trị.
Khi Pháp gia ra đời, Nho gia đã thấy bộ mặt kẻ thù ngay từ  khi còn trứng nước. Khổng Tử và Mạnh Tử, hai tổ sư Nho gia, đều sống trước Hàn Phi tử, đều đã chống tinh thần của Pháp gia, và chống ở những điều căn bản nhất. Nho gia lấy “nghĩa” chống “lợi”, lấy đức hoá, văn hiến “chống canh chiến”, lấy “đức trị” “lễ trị” chống hình, chính, pháp trị, lấy mệnh phận chống lực. Khổng Tử và nhất là Mạnh Tử chống chiến tranh một cách quyết liệt. Tinh thần đó cũng là tinh thần của các nhà Nho đời sau thường can ngăn vua “cùng binh độc vũ”. Khuyên vua dùng đức thay cho hình phạt, dùng văn đức thay cho chiến tranh đối với lân bang. Điều đó làm cho người ta dễ có ý kiến sai lầm tưởng như Nho gia không phục vụ đắc lực cho chủ nghĩa bành trướng.
Xây dựng hệ thống lý luận trên cơ sở vương quốc nô lệ chủng tộc Ân Chu là giai đoạn một bộ tộc chủ thể dùng sức mạnh chinh phục các bộ tộc chung quanh, biến thành chư hầu, di dân đến đồng hoá, bằng cách đó mở rộng đất nuớc, Nho gia có quan niệm về ngôi “thiên tử” có “thiên mệnh” được Trời giao cho cai quản cả “thiên hạ”. Đó là cơ sở của trật tự xã hội và cũng là cơ sở của uy quyền thiên tử.
Thiên hạ là đất đai của Trời, là  lãnh thổ nhưng lại không có biên giới. Thiên hạ có nhiều địa vực, với dân cư có trình độ văn minh khác nhau. Văn minh nhất là vùng Hoa hạ, quốc gia của thiên tử, nơi thánh nhân – cũng chính là thiên tử – bắt chước Trời mà định ra lễ  nhạc văn hiến. Xung quanh Hoa hạ là di địch, dã man chưa được giáo hoá. Từ xa xưa người ta đã hình dung thiên hạ thành Ngũ phục, bốn vòng đất đồng tâm quanh Hoa hạ. Phân biệt Hoa di là phân biệt giữa các nước, các địa vực có biên giới, nhưng di địch ở ngoài Trung thổ – vùng Hoa hạ - chứ không phải ở ngoài thiên hạ. Thiên hạ tuy nhiều nước nhưng phải thống nhất, và thống nhất theo lễ giáo Hoa hạ là nơi trời đã chọn thánh nhân làm thiên tử ; giao cho trách nhiệm giáo hoá tứ di. Cho nên nếu thiên tử làm cho tứ di thần phục triều cống – người ta gọi như thế là đức hoá của thiên tử lan xa, là “tứ di mến đức theo về” – làm cho thiên hạ mở rộng phạm vi thống nhất thì đó là bằng chứng để nói thiên tử trị vì có thánh đức. Như thế không chỉ là biểu hiện việc thiên tử làm tròn chức trách của Trời, được Trời ủng hộ. Nói cách khác thiên tử về danh nghĩa là chủ cả những vùng đất đai chưa nằm trong lãnh thổ của mình. Và ai không chống lại Trời thì phải nhận rằng thiên tử chinh phục đồng hoá là gia ân giáo hoá cho nước mình. Trong thiên hạ càng ngày càng mở rộng hình thành một trật tự theo hình ảnh gia đình: cha anh chỉ huy con em, nước chia ra nước lớn, nước nhỏ ; nước nhỏ có nghĩa vụ phải theo nước lớn như em theo anh, và tất cả đều phải nghe theo thiên tử, ông vua làm cha, làm anh các vua khác. Thiên tử có quyền vô hạn không phải vì nắm sở hữu toàn thiên hạ mà vì có thiên chức linh thiêng. Chỉ có thiên tử mới trực tiếp được nhận thiên mệnh. Các vua khác đều là chư hầu chỉ được nhận mệnh của  thiên tử, người đại diện duy nhất của Trời. Vì là con trưởng được nhận thiên mệnh, nên chỉ thiên tử mới có quyền tế Trời, Đất, thần núi, thần sông. Thiên tử không chỉ là người cầm đầu về chính trị, về quân sự, về kinh tế, về tôn giáo. Thiên tử còn là người có thánh đức, có trách nhiệm truyền bá giáo hoá. Ý kiến của thiên tử là chân lý. Cho nên chỉ có thiên tử mới có quyền định ra lễ nhạc, chỉ thiên tử mới là người trọng tài cầm quyền xét xử và thưởng phạt không chỉ thần dân trong nước mà còn cả các nước trong thiên hạ, thưởng  phạt với tư cách là vua, là cha, là thầy : chỉ thiên tử mới có  quyền chinh tru. Chinh tru là cất quân đánh nuớc khác để hỏi tội, để trừng trị. Vì là người thay mặt Trời, có trách nhiệm giáo hoá, cho nên không phải chỉ khi có lỗi với thiên tử mới bị hỏi tội. Nếu nước kia “vô đạo” con cướp ngôi cha, tôi cướp ngôi vua, vợ cướp ngôi chồng hay tỏ ra không kính trọng Trời…thiên tử cũng có trách nhiệm vì Đạo, Nghĩa mà cất quân chinh phạt.
Cho nên về lý thuyết thì Nho gia chủ trương dùng đức để cảm hoá, kịch liệt lên án chiến tranh, kể cả chiến tranh giành giật lẫn nhau, chiến tranh chống thiên tử và chiến tranh xâm lược. Thế nhưng mặt  khác khi chủ trương một vị thiên tử uy quyền vô hạn, cầm quyền thưởng phạt, độc quyền nắm giữ quân đội, dùng vũ lực và bắt mọi người – kể cả dân trong nước và tứ di, tức là các nước láng giềng- phải theo mệnh, tuyệt đối không được trái ý thiên tử ; đối với thiên tử họ chỉ có thể có một thái độ là trủng nghĩa, biết ơn phúc tùng như con đối với cha mẹ, thì kết quả tất nhiên chỉ có thể là bênh vực mọi hành động xâm lược.
Cho nên không chỉ có Pháp gia mới làm cho thiên triều thành bành trướng xâm lược. Bằng lý thuyết chuộng võ lực, biện chính mọi sự tàn bạo, mọi sự dối trá, mọi ý đồ xâm lược, Pháp gia chuẩn bị và thực hiện chiến tranh xâm lược.  Nhưng chính Nho gia lại cung cấp danh nghĩa, tăng thêm lòng tin làm cho hoàng đế không chỉ là tham lam vô độ mà còn thấy bao giờ mình cũng có lý, cũng có quyền gây chiến tranh xâm lược.
Pháp gia và Nho gia đề ra đời trên cơ sở kinh tế – xã hội của chế độ chuyên chế Trung Quốc. Cả hai học thuyết bỏ sung cho nhau, kết hợp với  nhau và tạo cho chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc – chủ nghĩa bành trướng thiên triều- những đặc trưng mang dấu ấn của chế độ chuyên chế đó. Ta có thể thấy chủ nghĩa bành trướng thiên triều Đại Hán có mấy đặc điểm.
1. Hiếu chiến, hống hách và ảo tưởng
Thiên triều là một chế độ độc tài tham lam vô độ đến mức hạn chế mọi thế lực, không giành quyền lợi kinh tế đáng kể cho một lực lượng nào làm cơ sở  xã hội cho chế độ. Đó là sự thống trị của một họ, thậm chí chỉ là của một người trên một đất nước rộng lớn luôn luôn ly tán, loạn lạc. Đó là một nền thống trị mỏng manh nhưng lại rất hiếu chiến, đặt biệt là lúc yếu cũng lại gây chiến. Nhiều tham vọng tất nhiên là cái bệnh chung của bất cứ giai cấp thống trị nào thế nhưng ông vua chuyên chế Trung Quốc khác với tất cả ở chỗ ảo tưởng: ảo tưởng về thiên chức, ảo tưởng về sự lớn mạnh, ảo tưởng lẽ phải thuộc về mình. Dẫn đến điều đó là quan niệm về thiên chức của thiên tử chứ không phải là về phẩm chất ưu việt của một dân tộc. Hoàng đế tuy có tự hào về lễ văn của vùng Hoa hạ, nhưng điều đó cũng do thiên tử được Trời phú dữ riêng, bắt chước Trời mà có. Trong người Hán không truyền bá tư tưởng về ưu thế của cả dân tộc. Với ảo tưởng về thiên chức, hoàng đế dễ thấy bị xúc phạm khi không được các nước nhỏ phục tùng, càng yếu thì càng dễ phát khùng. Vừa thấy mình lớn mạnh, vừa thấy mình phải lẽ, vừa thấy mình riêng được Trời phù hộ làm cha anh người khác, nên xử sự hống hách. ít có tính toán lợi hại thực tế, dễ hành động một cách phiêu lưu cầu may.
2. Nguỵ thiện
Chủ nghĩa bành trướng Đại Hán hình thành từ trước, nhất là từ đời Tần nhưng từ đời Hán về sau mới thành xu hướng ổn định. Chủ nghĩa bành trướng từ Hán về sau-tức là sau khi tìm ra phương hướng Nho Pháp tịnh dụng-không trắng trợn như đời Tần. Khi chinh phạt các nước láng giềng bao giờ cũng là “lễ tiền binh hậu”, bao giờ hoàng đế cũng tuyên xưng không có tham vọng đất đai và thần dân, thậm chí còn dè bĩu “đất cằn cỗi”, “dân khó bảo”, hoàng đế không thèm ; chinh phạt chẳng qua là bất đắc dĩ vì đạo lý, vì mục đích giáo hoá, vì mục đích cứu vớt. Lừa dối nguỵ thiện thành một nét đặc trưng. Cướp phá, chém giết, phá hoại văn hoá, đồng hoá đó là một chính sách bành trướng rất tàn bạo.  Nhưng sự tàn bạo bao giờ cũng được nguỵ trang bằng   những lời lẽ nhân nghĩa, đạo lý. Trơ tráo nhất là tấm lòng từ thiện chỉ muốn “kẻ có tội” hối hận, đầu hàng ngay để khỏi phải dùng đến khí giới vì hoàng đế vốn nhân ái không nỡ nhìn thấy cảnh tàn phá giết chóc.
Chế độ chuyên chế vốn yếu. Sự tồn tại của nó về bản chất là dựa vào sự lừa dối, dựa vào thủ đoạn thâm hiểm. Càng yếu lại càng mong dùng cách đe doạ, sự lừa dối nguỵ thiện mà thắng người.
3.- Trọng danh hơn thực
Bắt thêm một nước thần phục không phải bao giờ cũng mang lại lợi ích thực tế cho thiên triều. Ta không nói đến nhân dân hai nước hoàn toàn bị thiệt hại nặng khi có chiến tranh xâm lược như vậy. Ngay cả với hoàng đế Trung Quốc, chiến tranh làm tốn công tốn của, lại làm mạnh lên thế lực của võ tướng, quý tộc, và khi chiến thắng, không trực tiếp quản lý khai thác được đất đai nên cũng chỉ thu được món tuế cống không phải là nhiều. Nhiều khi hoàng đế chỉ thu được cái danh suông : Được một nước chịu tiếng là bề tôi thiên triều. Thế nhưng vì là thiên triều, hoàng đế Trung Quốc không chấp nhận ai đứng ngang hàng. Thiên tử có thái độ kẻ cả không chỉ với các nước như Lào, Thái Lan, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Hung Nô, những nước láng giềng, về danh nghĩa, phải tự nhận là phiên bang, thiên triều từ xưa theo lệ phong vương, đối xử như chư hầu ; tuy một số trong đó đã nhiều phen đánh cho thiên triều thua liểng xiểng. Ngay cả các nước phương Tây như Anh, Pháp, ngay từ khi mới tiếp xúc đã đánh bại, đã làm nhục thiên triều bao chuyến, lại chưa bao giờ là chư hầu cũng chỉ được thiên tử coi là Tổng đốc nước Anh, Tổng đốc nước Pháp và công khai đối xử như Di Địch. Thiên triều không bao giờ chịu cảnh bị khinh thường đến mức để các nước láng giềng độc lập, không nghe theo mệnh lệnh của mình. Để buộc các nước đó chịu phận đàn em, có khi thiên triều sẵn sàng làm ông anh đối xử rộng rãi, biết quà cáp cho em – những ông em bất trị – khá hậu hĩnh. Trường hợp nhà Tống đối với Khiết đan, nhà Thanh đối với vua Quang Trung là như vậy. Chịu nhận là đàn em thì đâu có ngỗ nghịch hay vòi vĩnh một chút thiên triều cũng ngơ cho.
Chế độ chuyên chế đó sống bằng uy tín chính trị. Nó xâm lược để bảo vệ danh hơn là giành lợi thực. Thói quen muốn làm bề trên cũng dẫn đến sự quan tâm, suy tính về danh nghĩa hơn là tính toán thực tế. Điều đó cũng thường thành nguyên nhân gây ra hành động phiêu lưu.
Đáng ngạc nhiên không phải là xu hướng bành trướng ở giai cấp thống trị ở một nước rộng lớn như Trung Quốc mà đáng ngạc nhiên là tâm lý bành trướng có cả trong nhân dân Trung Quốc. Bành trướng Đại Hán là dựa vào thiên chức thiên tử chứ không phải dựa vào sự ưu việt của dân tộc. Vì thánh đức của thiên tử chứ không phải vì vinh quang của dân tộc. Người dân Trung Quốc sống dưới chế độ chuyên chế, trong tổ chức xã hội quân sự hóa, có cuộc sống thấp kém nhất, nghèo đói, ngu dốt và vô quyền. Có chiến tranh lại phải làm thêm nghĩa vụ đi phu nộp thuế, đi lính, mang thêm chết chóc và nghèo đói. Sống lâu đời trong cảnh bi đát đó, họ trở thành cần cù, chịu khó đến nhẫn nhục, lầm lỳ, cam chịu. Thế nhưng không phải họ bất bình vì bị lôi kéo vào chiến tranh xâm lược mà nhiều khi lại có tâm lý say sưa chia sẻ cái hống hách, kẻ cả của chính kẻ áp bức mình. Tâm lý lạ lùng đó tồn tại cả trong những người Hoa Kiều vì bị áp bức bóc lột làm cho phá sản phải bỏ quê hương lưu lạc, kiếm ăn ở tận nước khác bằng những nghề hèn mọn như bán thuốc, bán phở….
Cái thân phận thần dân tử đệ, cái liên minh tự nhiên lâu đời giữa hoàng đế và dân chống các lực lượng phân tán, đạo lý sống trung nghĩa đã che lấp quan hệ thực giữa vua và dân. Không gọi là nô lệ mà gọi là xích tử, cũng như không gọi là đầy tớ mà gọi là gia nhân (người nhà). Họ thấy mình dự phần cao sang của ông chủ, thậm chí vì thế mà khoe khoang tự hào còn mong cả lợi dụng uy thế, danh nghĩa của ông chủ để ra oai, bắt nạt đàn em.
Xâm lược, bành trướng vốn gắn liền với chuyên chế, với điều kiện quốc gia thống nhất rộng lớn. Tư tưởng Pháp gia đầu tiên tạo ra cục diện đó nhưng nó không có khả năng giữ chuyên chế và thống nhất được lâu dài. Sự kết hợp Nho Pháp mới duy trì được những cái đó, có khi là mong manh, có khi chỉ là hình thức nhưng dai dẳng, khó phá vỡ. Tư tưởng Pháp gia làm cho tính hiếu chiến lộ rõ tàn bạo. Sự kết hợp Nho Pháp mới làm cho nó có bộ mặt giả dối để đánh lừa. Kết hợp Nho Pháp mới là cơ sở tư tưởng của chủ nghĩa bành trướng và điều đó được xác lập từ đời Hán. Sự kết hợp lạ lùng giữa hai hệ tư tưởng đối lập như vậy phản ảnh sự kết hợp cũng rất lạ lùng giữa sự tập trung chuyên chế với sự phân tán của làng xã, sự kết hợp lạ lùng  giữa tên độc tài là hoàng đế với người dân cùng khổ là vô quyền. Sự kết hợp như thế tồn tại trên cơ sở liên minh giữa hai lực lượng đều yêu cầu chống lại sự uy hiếp của lực lượng thứ ba: quý tộc và thổ hào theo xu thế tự nhiên tự nhiên hướng đến chế độ lãnh chúa.
Sự kết hợp đó tạo ra một thế giằng co lâu dài. Ổn định thống nhất chỉ là bề ngoài, chỉ là khéo che đậy, nhưng mâu thuẫn sâu sắc.
Nhưng hợp chất nào cũng có khe hở, có khả năng bị phá vỡ liên kết. Đó chính là chỗ cần phát hiện, khai thác để phá vỡ sự chuyên chế và chủ nghĩa bành trướng.

III. Đề cao tinh thần Pháp gia để hiện đại hóa quá khứ và hiện tại
Nho gia và Pháp gia là hai anh em, con đẻ của chế độ chuyên chế Trung Quốc. Tuy cả hai đều được hoàng đế cưng chiều, tịnh dụng mỗi bên một cách, nhưng giống như cảnh con cái tranh quyền đoạt lợi trong nhiều nhà, hai anh em Nho Pháp xung khắc gay gắt. Mở đầu xung đột là thời kỳ Chiến Quốc đến Tần Hán. Cuộc tranh luận trùng với thời điểm vương chế Ân Chu nhường chỗ cho chế độ hoàng đế Tần Hán. Hoàng đế Tần Hán nối tiếp nhau giành được thiên hạ. Sau khi đế chế thành lập vấn đề đặt ra cho nó là giữ vững sự thống nhất thiên hạ, củng cố và phát triển uy quyền hoàng đế, tức là củng cố chế độ chuyên chế và tiếp tục bành trướng. Tranh luận Nho Pháp biểu hiện sự lựa chọn một ý thức hệ thích hợp với nhu cầu đó của đế chế. Bách gia tranh minh kết thúc ở kết luận Nho Pháp tịnh dụng của Hán Võ đế. Tịnh dụng không phải để bất phân thắng phụ, dung hòa, chấp nhận nhau mà là Nho gia được tuyên bố độc tôn, công khai thống trị, còn Pháp gia thành học thuyết ngự dụng, bí truyền. Thực chất nội dung tranh chấp là độc tài tuyệt đối hay là nhân nhượng một mức độ nhất định với làng xã, ưu đãi, tin cậy, đối xử có lễ độ chứ không phải khinh miệt, nô dịch quan lại và đẳng cấp sĩ, nói tóm lại là làm thế nào bảo vệ chế độ chuyên chế có hiệu quả hơn. Từ khi đế chế kiểu nhà Hán ổn định, Nho gia trở thành học thuyết thống trị, Pháp gia tuy là đồ ngự dụng, nhưng bên ngoài ở vào cảnh tội phạm, thành cái đích cho các nhà nho suốt hai mươi thế kỉ công kích mạt sát mà không bao giờ phản kích lại.
Cho đến sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời, năm 1957 một phong trào mang tên: “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” làm sống dậy không khí học thuật thời Chiến Quốc. Khắp nơi tranh luận về rất nhiều vấn đề chính trị và học thuật-theo cách nhìn của những người theo Mao thì học thuật cũng là chính trị. Tiếp theo đó là phong trào chống phái hữu, cũng tức là trừng trị những người đã đua tiếng, khác với giọng chính thống. Rồi phong trào chống xét lại, và hơn mười năm sau, sau đại cách mạng văn hóa vô sản, vấn đề Nho Pháp nổi bật lên.
Trong chiến dịch “phê Lâm phê Khổng” những kẻ thù của Mao được gán cho cái nhãn hiệu là Nho, với tội trạng là âm mưu phục hồi chủ nghĩa tư bản, là bảo thủ, là phản cách mạng. Ngày xưa cuộc tranh luận Nho Pháp không chỉ tốn nhiều thì giờ, nhiều nước bọt, nhiều thẻ tre mà còn tốn khá nhiều máu. Tần Thủy Hoàng theo đề nghị của Pháp gia đã “đốt sách chôn Nho”. Pháp lệnh thi hành triệt để, có hiệu quả đến mức mấy chục năm sau khó khăn lắm nhà Hán mới tìm được người còn nhớ, đọc cho chép lại các kinh điển Nho gia. Còn ở Trung Quốc ngày nay, những người bị phe Mao ghép tội theo Nho bị đấu tố, bị đưa đi cải tạo và bị tiêu diệt. Con số người bị nạn gấp hàng trăm lần thời Tần Thủy Hoàng nhưng Mao Trạch Đông cho thế vẫn còn là ít.
Tôi muốn nhấn mạnh sự giống nhau giữa hai hoàn cảnh đặt vấn đề và cũng giống nhau trong nội dung vấn đề tranh luận nữa. Đặc điểm của lịch sử Trung Quốc là những thời đại lịch sử kéo rất dài thường là nhân tuần, thay đổi dần, không có đột biến cách mạng. Thời Tần Hán và thời cận hiện đại  là hai thời điểm có chuyển biến mạnh nhất. Ở hai thời điểm đó rõ ràng xuất hiện nhu cầu tổng kết quá khứ, tìm đường đi cho lịch sử hướng đến tương lai.
Trước kia trên cơ sở tồn tại khách quan của làng họ và cục diện thống nhất, thời Tần Hán đã phải giải quyết quan hệ giữa tập trung và phân tán theo hướng nhân nhượng làng-họ, duy trì tàn dư  công xã để chống lại xu hướng lãnh chúa, hàng ngày dễ nảy nở trực tiếp uy hiếp sự tập trung chuyên chế của hoàng đế và nuôi dưỡng xu hướng bành trướng, mở rộng thiên hạ do chế độ chuyên chế đẻ ra. Cách giải quyết của Hán Võ đế đã thành khuôn vàng thước ngọc cho mọi triều đại từ nhà Hán đến nhà Thanh.
Cuối đời Thanh mâu thuẫn xã hội đã cực kỳ trầm trọng. Mâu thuẫn dân tộc Hán-Mãn, mâu thuẫn giữa Trung Quốc và các đế quốc phương Tây lại càng làm cho tình hình càng rối loạn hơn. Sự thắng lợi của Đảng cộng sản Trung Quốc dẫn đến việc thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc. Thắng lợi của Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1949 đã giải quyết cùng một lúc các mâu thuẫn do lịch sử để lại. Trong sự hoạt động của mình, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tiếp tục nhiệm vụ bỏ dở của phong trào nông dân Thái Bình Thiên Quốc, nhiệm vụ bỏ dở của phong trào dân tộc chống đế quốc. Từ Vạn lí trường chinh, theo sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông, Đảng cộng sản Trung Quốc đã học tập và phát triển kinh nghiệm khởi nghĩa xây dựng căn cứ và tiến hành chiến tranh nông dân, huy động và tổ chức quân chủ lực là nông dân để giải quyết các vấn đề đó. Về sau khi thắng lợi, vấn để đặt ra là tìm con đường cụ thể xây dựng đất nước hướng đến tương lai.  Cứ nhìn những vấn đề được đem ra thảo luận và các phong trào được phát động, ta cũng có thể thấy được nội dung phương hướng được lựa chọn là gì. Sau khi tiến hành cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp và phong trào hợp tác hóa nông nghiệp , tam phản, ngũ phản, chống phái hữu, đại nhảy vọt, toàn dân làm gang thép, xây dựng công xã , đại cách mạng văn hóa vô sản, bốn hiện đại hóa với các chủ trương học tập Lôi Phong, hạ phóng, xây dựng công xã kiểu Đại Trại, xí nghiệp kiểu Đại Khánh và các cuộc tranh luận về quan hệ sản xuất, về vô sản chuyên chính, về “một phân đôi”, về chống dùng vật chất kích thích….Quán xuyến tất cả là việc học tập tư tưởng Mao Trạch Đông. Việc tranh luận Nho Pháp được đặt ra trong bối cảnh như vậy, và hướng giải quyết của nó, theo tinh thần  “cổ vi kim dụng” , có ý nghĩa nhìn lại quá khứ, lựa chọn một giải pháp cho tương lai.
Nội dung của tất cả những việc vừa kể trên chỉ là:
- Tăng cường chuyên chế đến mức tập trung tất cả quyền hành vào chỉ một người; hạn chế đến tiêu diệt mọi thế lực đối lập dẫu là cá nhân, tổ chức quần chúng, tổ chức Đảng hay thể chế của nhà nước…
- Tổ chức công xã thành đơn vị cơ sở phổ biến ; cải tạo xí nghiệp, trường học – các tổ chức có tính chất thành thị-theo mẫu công xã, nhất thể hóa thành xã hội quân sự hóa, một thứ xã hội canh chiến.
- Cải tạo mọi tầng lớp thành nông dân. Các loại dân thành thị dầu là tư sản, trí thức hay là công nhân công nghiệp đều phải học tập nông dân, học tập quân đội, học tập “giáo sư chân đất”, lấy bần cố nông làm Thầy, biến tất cả thành những người giống như nông dân, gắn bó với công xã, tuyệt đối cảm ơn, sùng tín, nghe lệnh lãnh tụ, hết sức lao động, thắt lưng buộc bụng hy sinh cho nhà nước chuyên chế.
- Cả nước võ trang, toàn dân luyện tập quân sự, mọi sinh hoạt quân sự hóa. Cả nước thành một trại lính chuẩn bị chiến tranh.
Đề cao Pháp gia thực chất là tăng cường chuyên chế và phát triển chủ nghĩa bành trướng.
Nông dân khởi nghĩa đã thắng lợi. Đại ca đã lên ngôi hoàng đế. Rút kinh nghiệm “chính quyền từ mũi súng”, đại ca muốn dùng mũi súng trong tay nông dân mà mở rộng chính quyền của hoàng đế ra cả thiên hạ. Và thiên hạ vào thời hiện đại, với tri thức địa lý đã mở rộng, ngũ phục đã lan đến năm châu bốn bể, nếu không phải là rộng hơn.
Những người theo Mao nói tìm ra ở Pháp gia tinh thần cách mạng , tức là không nửa đường dừng bước, không thủ cựu, dám nghĩ dám làm, dám thay đổi. Đó chỉ là giả nhân, giả nghĩa theo thủ đoạn “ngoại Nho” của hoàng đế mà thôi. Còn phần “nội Pháp” thì họ muốn tìm ở đó tinh thần cực quyền, tinh thần vũ lực, hiếu chiến và coi dân là công cụ. Không phải chỉ có đối với tư tưởng Pháp gia, cả đối với tư tưởng Mác-Lênin, Mao Trách Đông cũng chẳng phải chỉ tìm ở đó lý thuyết mâu thuẫn, đấu tranh giai cấp, vô sản chuyên chính và quan hệ sản xuất (tập thể hóa, quốc hữu hóa tư liệu sản xuất) đó sao? Cái họ thích ở chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Cộng sản không phải là lý luận xây dựng xã hội tiền tiến, tự do, hạnh phúc , dân chủ, nhân đạo cao, mà chỉ là phương pháp củng cố được chuyên chính hiệu quả hơn, thu sản phẩm lao động của dân được dễ dàng hơn và được nhiều hơn để chuẩn bị chiến tranh làm cho Trung Quốc thành siêu cường. Tư tưởng Mao Trạch Đông cũng được biểu đạt bằng những thuật ngữ Mácxít như mâu thuẫn, biện chứng pháp, đấu tranh giai cấp….nhưng không phải dựa vào một cơ sở khoa học, một phương pháp luận khoa học nào mà là lựa chọn, lấy bỏ trong tất cả mớ lý luận hỗn tạp xưa  và nay, đông và tây theo một lập trường, đúng những quan điểm củng cố chuyên chế (với nhãn hiệu vô sản chuyên chính) và phát triển  bành trướng (với nhãn hiệu làm cách mạng thế giới).
Rõ ràng một xu hướng phục tích nhưng không phải phục tích tư bản chủ nghĩa. Sau cách mạng thành công, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã tiến hành nhiều hoạt động cải tạo và xây dựng với tốc độ đáng phấn khởi. Những hoạt động đó có ý nghĩa cách mạng, có lợi cho nhân dân Trung Quốc và chuẩn bị điều kiện cho Trung Quốc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề được đặc biệt nhấn mạnh và cũng là kết quả đã thu được là làm hình thành quan hệ sản xuất mới. Thế nhưng sự thay đổi đó, tự thân nó, trong điều kiện của nền sản xuất thấp kém và trình độ văn hóa và xã hội lạc hậu của Trung Quốc chỉ đang là đứng trước ngã ba đường: Trung Quốc có khả năng phát triển lên chủ nghĩa xã hội, cũng có khả năng hướng sang chủ nghĩa tư bản hay nằm ỳ ở phong kiến. Cả một nông thôn bao la với số nông dân khổng lồ đang nằm trong tình trạng lạc hậu đe dọa níu sự phát triển lại. Mặt khác, ở một số điểm, những cải cách nói trên lại làm cho xã hội Trung Quốc giống chế độ chuyên chế xưa hơn.
Trong quan hệ sản xuất mới, tư liệu sản xuất được tập thể hóa, quốc hữu hóa, người ta thấy gắn với chế độ vương hữu hơn chế độ tư hữu tư sản. Người nông dân thấy ở việc tập thể hóa nông nghiệp hình ảnh chế độ công điền, hợp với lí tưởng quân bình mà họ ôm ấp xưa nay. Trong một xã hội công nông binh mà các tổ chức phi nông thôn cũng đều công xã hóa, như Mao Trạch Đông đã muốn làm triệt để như vậy, người dân sẽ thấy mình sống trong làng xã phổ biến hơn, rất hợp với tư tưởng ghét thành thị, ghét tư sản, ghét trí thức, ghét mọi cái xa lạ họ. Về mặt chính quyền,cũng lại là bộ máy quan liêu, đội quân thường trực và trên cùng cũng lại là một người cầm lái vĩ đại, anh minh, thần thánh, chẳng khác thiên tử. Do đặc điểm lịch sử, kinh tế và  xã hội  của Trung Quốc, chủ nghĩa tư bản tuy đã  phát triển nhưng chỉ tập trung ở vùng ven biển và các thành phố lớn. Quan hệ tư sản chưa thành phổ biến để sự phục tích hướng vào đó. Mao đã xây dựng chính quyền mới không khác sau các cuộc khởi nghĩa nông dân thắng lợi xưa kia: những người có mặt ở tụ nghĩa đường chia nhau cầm quyền thiên hạ trong đó đại ca lên ngôi hoàng đế. Mao đã lập một tân trào cũng có hai ban văn võ (phái quân sự, phái hành chánh) cũng có xung đột phe phái, xung khắc giữa địa phương và trung ương và cuối cùng lại xuất hiện cả thái tử và hoàng hậu nữa. Cho nên nếu như đối với các nước láng giềng tân trào này có nảy ra tham vọng thiên triều thì cũng chỉ là việc tự nhiên: ngựa đi theo đường cũ.
Người nông dân được cách mạng giải phóng lại tiếp tục sống trong một môi trường đã được cải tạo thành ra quen thuộc, tư tưởng lại không được cải tạo theo hướng xã hội chủ nghĩa chân chính. Họ được lãnh tụ đưa lại ruộng đất giúp họ trả thù phú nông, địa chủ, hàng ngàn đời áp bức bóc lột và làm nhục họ, lại đưa họ lên làm gương, làm mẫu, làm Thầy để cải tạo dân thành thị là những người họ vẫn kỳ thị, thỏa mãn được lòng ghét kẻ giầu sang, ghét trí thức, trả thù cái thành thị vừa phức tạp vừa kiêu hãnh khó hiểu. Với cuộc sống cô lập vì cột chặt vào công xã, với thói quen sống đói rách, ít đòi hỏi tự do, hạnh phúc, văn hóa, họ dễ thỏa mãn và cam chịu. Thỏa mãn vì những cái họ có được hưởng, thỏa mãn vì ơn nghĩa, thỏa mãn vì ít đòi hỏi. Họ chỉ phải lao động nhiều, đóng góp nhiều, bị ràng buộc hơn, nhưng những cái đó đối với họ cũng đã thành quen. Trước cách mạng họ còn khổ hơn. Họ sẵn sàng tin tưởng ở lãnh tụ, cũng do thói quen của nông dân, từ lâu đã được đồng nhất với Thánh nhân: nhân ái, sáng suốt và linh thiêng. Giữa một bên là Hoàng đế và một bên là lê dân-xích tử, những người được đưa vào bộ máy Đảng, chính quyền, quân đội cũng đã có sẵn những mẫu mực, những con đường để bước theo: quan, lại, thổ hào, quân phiệt và kẻ sĩ.
Trong tình hình thực tế đã đi đến như vậy, thật không có gì lạ lùng vấn đề con đường phát triển được đưa ra bàn lại, xuất hiện dưới dạng tranh luận Nho-Pháp.
Con đường Mao Trạch Đông lựa chọn đã đưa Trung Quốc quay lại với các triều đại phong kiến, nhưng Mao thiết tha muốn Trung Quốc thành một cường quốc của thế giới hiện đại, dè bỉu sự nghiệp tầm thường của Tần Thủy Hoàng, Hán Võ đế, Đường Thái Tông. Những người chống Mao, bị Mao coi là Nho cũng vậy. Họ có thừa nhiệt tình, quyết tâm, không ngại san bằng mọi trở lực và học được không ít những kinh nghiệm thế giới trong vấn đề hiện đại hóa. Nhắm mục đích đó những nhà lãnh đạo Bắc Kinh đã cố gắng giải quyết vấn đề vốn, vấn đề kỹ thuật, vấn đề chuyên gia, không ngần ngại dùng cả những biện pháp phản động, nhục nhã như bắt tay với các nước đế quốc, quan hệ với các chế độ phản động để đạt mục đích. Quan niệm một nước hiện đại, cường quốc hiện đại của họ là có nền công nghiệp hiện đại,có nền nông nghiệp hiện đại, có nền kỹ thuật hiện đại, có nền quốc phòng hiện đại-bốn cái hiện đại theo tứ tự này hay thứ tự khác. Nói cách khác bốn hiện đại cũng là phú cường, phú cường dựa trên sản xuất hiện đại, với khoa học kỹ thuật hiện đại. Nước Trung Hoa phú cường hiện đại mà họ định xây dựng cũng theo chế độ xã hội chủ nghĩa, và tính đến sự sốt ruột đại nhảy vọt của Mao Trạch Đông của những năm 50 thì còn muốn nó là cộng sản chủ nghĩa trước cả Liên Xô nữa. Có lẽ cũng không nên nghĩ rằng họ nói như vậy hoàn toàn chỉ là để lừa dối. Nhưng có phần chắc là chưa bao giờ những người lãnh đạo Bắc Kinh cả Mao và những người kế tục Mao, hiểu đúng thực chất xã hội xã hội chủ nghĩa cả. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa hay Cộng sản chủ nghĩa của Mao chưa bao giờ quan tâm đến chủ nghĩa nhân đạo, đến chủ nghĩa dân chủ, đến tự do hạnh phúc của con người, đến nền văn hoá phát triển, đến lợi ích quốc tế, lợi ích các dân tộc bình đẳng. Thiếu một cơ chế xã hội dân chủ, một nền văn hóa nhân đạo chủ nghĩa, một cường quốc hiện đại như vậy- đâu có thực hiện được- cũng chưa thể coi là dân chứ chưa nói đến xã hội chủ nghĩa hay cộng sản. Việc đề cao tinh thần Pháp gia của những người lãnh đạo Bắc Kinh cho ta thấy khuynh hướng hạn chế thêm nữa những quyền dân chủ đã quá ít ỏi, bóp nghẹt hơn nữa những đòi hỏi nhân đạo chủ nghĩa vốn đã quá nghèo nàn trong xã hội Trung Quốc. Cho nên nếu có giải quyết được mọi vấn đề mà họ đặt ra để thực hiện được bốn hiện đại hóa thì nước Trung Hoa đó đi theo hướng chuyên chế và bành trướng, tức là phát xít hóa.
Lịch sử thật là bướng bỉnh. Hơn hai mươi thế kỉ đã trôi qua mà khi giải quyết phương hướng cho tương lai thực tế lại quay lại vấn đề Nho hay Pháp, và cũng có thể cả Nho, Pháp, Đạo- một cái thế chân vạc vững vàng xưa nay trong lịch sử Trung Quốc. Sự luẩn quẩn như vậy bắt chúng ta phải nghĩ đến một cái gì đó thuộc về phần sâu xa nhất trong quy luật phát triển của xã hội Trung Quốc, của lịch sử Trung Quốc, choi phối lâu dài sự phát triển của Trung Quốc.
Có thể rồi đây vấn đề Nho Pháp không đặt ra một cách lố bịch như phong trào “phê Lâm phê Khổng” nữa. Mao Trạch Đông và tư tưởng Mao Trạch Đông cĩng có thể bị lên án, đem ra phê phán kịch liệt. Nước Trung Hoa có thể thành cường quốc hiện đại. Nhưng cường quốc hiện đại, để theo hướng phát xít đó, có tránh khỏi những nét rất Tầu? Và để đối phó với cái hiểm họa mà nó sẽ gây ra cho cả loài người, và trước tiên cho nước Việt Nam, không may quá gần gũi lại án ngữ ngay cửa ngõ bành trướng của họ, mọi người nên tìm trong bộ mặt hiện đại của nó cái bản chất mang dấu ấn sâu sắc của quá khứ?

Kết luận

Giữa một thời đại mà tất cả các dòng thác cách mạng đang đổ về một hướng, lôi kéo mọi thế lực không cưỡng lại được, thì con đường Trung Quốc thật độc đáo. Mọi người hướng về dân chủ thì Trung Quốc tăng cường chuyên chế, mọi người tìm kiếm hòa bình thì Trung Quốc gây chiến, mọi người đổ xô vào kinh tế, khoa học kỹ thuật thì Trung Quốc dốc sức vào chiến tranh, mọi người đang hướng  vào tương lai tìm lời giải đáp thì Trung Quốc quay về quá khứ. Trong hoạt động quân sự Mao Trạch Đông muốn chọn một cách đi độc đáo, hơn thế lại muốn cả thế giới coi đó là duy nhất đúng, muốn cả thế giới đi theo con đường của mình. Kết quả là dẫn Trung Quốc đến một chế độ quân sự hóa cực tàn bạo, một chủ nghĩa bành trướng thật phiêu lưu, tàn bạo, phiêu lưu đặc biệt Tầu. Quá khứ đang định hướng sự phát triển của Trung Quốc hiện đại. Dân tộc Trung Hoa có một nền văn minh lâu đời một quá khứ vĩ đại. Nó  làm vinh quang cho cả dân tộc . Thế nhưng nó cũng là cây cổ thụ thân to, gốc bền, rễ và cành của nó trùm lên cả thời hiện tại; nó cũng là một gánh nặng cho sự phát triển của Trung Quốc hiện đại. Đối với mọi người suy nghĩ lành mạnh con đường của Mao, cách làm, cách nghĩ của những người theo Mao thật phi lí, khó hiểu, tưởng như không thể nào có thực. Nhiều người vì vậy trong một thời gian dài đã không tin có thể là như vậy. Thế nhưng đó lại là thực tế kéo được hàng mấy trăm triệu con người đi theo, ngày nay thành một sức mạnh hung bạo chống cách mạng. Không tìm được bản chất của hiện tượng đó thì không cải tạo được nó, không giải được cái lí của cái phi lí thì không làm chủ khắc phục được nó.
Rõ ràng là không thể bỏ qua cái đặc thù của Trung Quốc, tất nhiên làm vậy không phải theo hướng cường điệu cái đặc thù để đối lập đi đến phủ nhận cái phổ biến, phủ nhận quy luật chung của lịch sử loài người, phủ nhận tính chân lý của chủ nghĩa Mác và kinh nghiệm của phong trào công nhân các nước, biện hộ cho những mưu mô xảo trá, dựa vào tính đặc thù để biện hộ con đường dân tộc chủ nghĩa tư sản. Tìm hiểu nét đặc thù Trung Quốc chỉ là để, và nhất định sẽ giúp ta, hiểu cái phổ biến cụ thể hơn, hành động có kết quả hơn.
Vấn đề Nho Pháp là một chứng tích cho ta đi tìm cái đặc thù như vậy. Tôi đã không bàn nội dung và giá trị của hai học thuyết đó, không bàn chiến dịch “phê Lâm phê Khổng” mà chỉ nhấn mạnh cách đặt vấn đề và hướng giải quyết vấn đề như vậy có ý nghĩa lịch sử bộc lộ một cái gì cố hữu rất quen thuộc của Trung Quốc.
Lịch sử lâu dài đã rèn luyện cho giai cấp thống trị từ vua, quan, quân phiệt, thổ hào đến nha lại những thủ đoạn, những thói quen, những lý thuyết để thống trị. Tư tưởng Nho gia và Pháp gia , biện pháp Nho pháp tịnh dụng chính là tổng kết lý luận của nhóm thống trị cao nhất. Hướng tịnh dụng Nho và Pháp đã cung cấp cho các thế hệ người cầm quyền trong lịch sử cho đến cả ngày nay hướng để sắp xếp, xử lí với các lực lượng, cách quan niệm chức trách, làm hình thành những mưu đồ, những tham vọng, những cách đối phó với thực tế. Theo dấu vết đó ta có thể tìm được cái tham, cái phi lý, cái thâm hiểm đang chi phối cách tính toán của những người theo chủ nghĩa bành trướng đại Hán hiện tại.
Nhưng lịch sử cũng lại rèn luyện cho nhân dân sống dưới ách thống trị như vậy những mánh khóe để đối phó với các biện pháp thống trị trên. Cách đối phó thường là “dùng gậy ông đập lưng ông”. Ở đây hầu như chỉ thấy Nho mà không thấy Pháp. Nhưng không nên quan niệm Nho và Pháp hoàn toàn đối lập, cô lập, không nên quan niệm chỉ có bộ hai Nho Pháp. Đằng sau hệ tư tưởng còn có một cơ sơ kinh tế-xã hội, một cơ chế chính trị xã hội còn có sức tác động mạnh hơn là hệ tư tưởng, là tàn dư của hệ tư tưởng.
Tìm hiểu những điều đó có sự tương ứng giữa những cái đó, chúng tôi nghĩ có thể cung cấp được những dữ kiện khoa học giúp ta hiểu xu hướng của nước Trung Hoa ngày nay, góp phần vào việc tìm hướng đối phó bằng hành động thực tế chống nguy cơ bành trướng Đại Hán.
                                                                                                            Huế 07/05/1979

Nguồn: Bài này được in trong cuốn Trần Đình Hượu tuyển tập (tập 1) , NXB Giáo Dục,2007, tr.689-713. Tuy nhiên bản  in   trong cuốn sách trên là bản không đầy đủ, đã bị lược bỏ đi nhiều đoạn nhạy cảm. Bản đầy đủ đã được trang talawas đăng, nhưng hiện giờ tôi không còn tìm được link cũ của nó. Bản trên blog này (cũng chính là bản đã đăng trên talawas) là do học trò của GS Trần Đình Hượu nhờ tôi đánh máy và chú thích hộ một vài chỗ trong bài viết. Đây là bản hoàn chỉnh, đánh máy đúng theo bản gốc của GS Trần Đình Hượu. 

[1] Trong bản gốc, tác giả đánh máy là “tĩnh dụng”. Thực ra từ này là “tịnh dụng”. Theo chúng tôi, từ này tác giả phát âm theo thổ ngữ của người xứ Nghệ, vì vậy chúng tôi mạo muội sửa lại cho đúng âm đọc. (Tất cả chú thích trong bài đều của người đánh máy)
[2] Chiến tranh “kiêm tính”: Chữ dùng của Mặc Tử trong thiên “Thiên chí hạ”, để chỉ việc chiến tranh thôn tính đất đai
[3] Kha lão: Từ để tôn xưng những người cao tuổi tôn quý ở trong làng xã
[4] Tam lão: Thời xưa mỗi làng cử ra một người từ 50 tuổi trở lên có đức hạnh, nắm giữ việc giáo hóa dân chúng ở trong làng gọi là “tam lão”. Như nước Ngụy thời Chiến quốc có “tam lão”, nước Tần thì đặt ra chức “hương tam lão”,  đến đời Hán thì lại thêm “huyện tam lão”, đến thời Đông Hán còn có “quận tam lão”, và “quốc tam lão”….
[5] Cỗ thái lao: Cỗ hiến sinh dùng thịt của ba loài vật là:  ngưu (bò), dương (dê), thỉ (lợn)

Sunday, May 29, 2011

Cổ sử (3): Tư liệu và công trình nghiên cứu của người nước ngoài về Việt Nam (đã được dịch sang tiếng Việt)

Nhớ được cuốn nào thì tôi sẽ liệt kê cuốn đó không theo một trật tự nhất định. À, nếu có thì hình như là theo thứ tự giảm dần về mặt thời gian xuất bản. Tuy nhiên vì đây là liệt kê theo sức đọc của cá nhân tôi nên có thể danh sách sẽ không đầy đủ. Trong danh mục dưới đây một vài cuốn sẽ có kèm link bản dịch trên mạng.

Phần tư liệu

 1. Tuyển tập tư liệu phương Tây, (nhóm dịch do PGS.TS Nguyễn Thừa Hỷ chủ trì), NXB Hà Nội, 2010. Cuốn sách là một công trình khảo dịch công phu những tư liệu của người Phương Tây viết về Đàng Ngoài từ thế kỷ XVII cho đến năm 1945 từ nhiều thể loại: thư, nhật ký, hồi ký, những ghi chép dạng du ký, các bản ghi nhớ, các bài báo…. của các giáo sĩ, thủy thủ, nhà du hành, thương nhân, các sĩ quan (giai đoạn đầu Pháp thuộc). Có người trong số họ chỉ từng một lần đặt chân đến Đàng Ngoài, có người đi lướt qua nó,  nhưng cũng có người lại gắn bó với xứ sở này trong một thời gian dài. Điều đáng tiếc vì đây là một cuốn sách thuộc “Dự án sách 1000 năm Thăng Long Hà Nội” nên những tư liệu được chọn dịch chỉ liên quan đến Đàng Ngoài, phần liên quan đến Đàng Trong không được nhắc đến. Cuốn sách bắt đầu từ Bản tường trình về xứ Đàng Ngoài của cha Baldinotti- một tư liệu được xem là sớm nhất của phương Tây ghi chép về Việt Nam (đọc bản dịch khác của tư liệu này tại đây) và kết thúc bằng Hà Nội lớn (năm 1942) của Pineau (một kiến trúc sư thuộc Sở Quy hoạch đô thị Trung ương). Tuyển tập tư liệu phương Tây có thể được xem như một tư liệu đối sánh với những ghi chép trong sử Nho gia của Việt Nam giai đoạn từ thế kỷ XVII trở đi. Có rất nhiều chuyện không được ghi chép trong sử chính thống của nhà Nho nhưng lại có thể tìm thấy trong một lá thư của một giáo sĩ người Bồ Đào Nha hay trong nhật ký của một thủy thủ người Hà Lan (những công cuộc buôn bán, trao đổi hàng hóa, tiền tệ, cống vật…vân vân)….Những mô tả tỉ mỉ về đời sống chốn dân gian, sự xuất hiện của người nước ngoài tại Kẻ Chợ, những cuộc tiếp xúc giữa quan lại người Việt với người phương Tây cho thấy một cuộc sống hoàn toàn sôi động trong xã hội Kẻ Chợ lúc bấy giờ, điều mà người ta không tìm thấy trong các bộ sử chữ Hán ở Việt Nam. Trong tập tài liệu này có hai tư liệu mà tôi quan tâm nhất chính là Mô tả vương quốc Đàng Ngoài của Samuel Baron và Lịch sử tự nhiên, dân sự, và chính trị xứ Đàng Ngoài  của Richard.  Cha của Samuel Baron vốn là đại diện cho công ty Đông Ấn Hà Lan tại Kẻ Chợ. Bản thân Samuel Baron sau này cũng làm việc cho công ty Đông Ấn Anh tại đây, ông từng có một thời gian dài sống ở Đàng Ngoài nên những ghi chép của ông có cơ sở để tin cậy. Một điểm đáng chú ý khác là Samuel Baron không viết về Đàng Ngoài dưới dạng du ký như nhiều nhà du hành hoặc thương buôn phương Tây khác. Đàng Ngoài dưới con mắt của Samuel Baron không phải là một vùng đất ông lướt qua trong một chuyến đi mà những miêu tả tỉ mỉ về xứ sở này với sự phân chia các chương mục rất rõ ràng, đưa ra cả những số liệu cụ thể giống như một công trình khảo sát của một nhà dân tộc chí cho thấy ông rất am hiểu vùng đất này.

2. Tư liệu các công ty Đông Ấn Hà Lan và Anh  về Kẻ Chợ - Đàng Ngoài thế kỷ XVII (TS Hoàng Anh Tuấn biên soạn), NXB Hà Nội 2010. Không cần mô tả lôi thôi rắc rối, mời các bác trực tiếp nghe TS Hoàng Anh Tuấn nói về cuốn sách này tại đây. Một lưu ý nữa là bác nào quan tâm đến kinh tế Việt Nam thế kỷ XVII thì nên đọc cuốn này vì ở phần Phụ lục tác giả có đưa kèm những nghiên cứu của mình về mậu dịch tơ lụa, mậu dịch kim tiền, xuất khẩu gốm sứ ở Đàng Ngoài giai đoạn này với những số liệu rất cụ thể.

3. Văn hóa tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt (3 tập), Leopold Cadiere, Đỗ Trinh Huệ dịch, NXB Thuận Hóa, Huế 2010. Trước bộ sách 3 tập này đã có một cuốn tên Văn hóa tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam của Leopold Cadiere, Đỗ Trinh Huệ dịch NXB Thuận Hóa, Huế, 2006. Bản năm 2006 chính là nội dung tập 1 và một phần trong tập 2 của bộ 3 tập xuất bản năm 2010. Bạn Nhị Linh lâu rồi có nói về vụ giới từ của người Việt, ông Leopold Cadiere cũng có nói về chuyện đó trong phần viết “Một vài quy luật tư duy nơi người Việt, nhìn từ ngôn ngữ của họ’ (tập 3). Những quan sát và lý giải của Leopold Cadiere về phong tục, tập quán, tín ngưỡng và ngôn ngữ người Việt rất có giá trị tham khảo, tuy nhiên đối tượng quan sát chính của ông chỉ giới hạn ở địa phận Huế và các vùng phụ cận (hay nói cách khác là ở vùng Thuận-Quảng).

4. Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà 1792-1793 , J. Barrow, Nguyễn Thừa Hỷ dịch, Công ty cổ phần Từ Văn và NXB Thế giới, 2011. Có một cảm nhận: đọc cuốn này thi thoảng quên béng mất là mình đang đọc những ghi chép về Đàng Trong mà tưởng mình đang đọc tiểu thuyết của Jules Verne :)) :)) :)). Trong cuốn này có một bảng so sánh những từ đơn Trung Quốc, tiếng Anh và tiếng Việt (Đàng Trong), đây là một ghi chép quan trọng.

5. Đông Dương ngày ấy 1898-1908, Claude Bourrin, Lưu Đình Tuân dịch, Nhà xuất bản  Lao động và Trung tâm ngôn ngữ Đông Tây, 2009. Một cái nhìn về An Nam dưới con mắt của một viên chức ngành thuế. Với những ghi chép thú vị, Claude Bourrin (người đã từng ở Hải Phòng, Lạng Sơn, Hà Nội, Sài Gòn) sẽ cung cấp cho người đọc những thông tin rất đỗi bình thường về cuộc sống của chính ông và những người xung quanh ông tại những nơi ông đã đi qua.

6. Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861, Léopold Pallu, Hoang Phong dịch, NXB Phương Đông, 2008.

7. Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688 , William Dampier, Hoàng Anh Tuấn dịch, chú thích viết lời tựa, Nguyễn Văn Kim hiệu đính- NXB Thế giới, 2006

8. Những người Châu Âu ở nước An Nam, Charles B. Maybon, Nguyễn Thừa Hỷ dịch, NXB Thế giới 2006

9. Quảng tập viêm văn, Edmond Nordemann, Nguyễn Bá Mão biên dịch và chú thích bổ sung, NXB Hội Nhà Văn và Trung tâm ngôn ngữ Đông Tây, 2006. Một tài liệu thú vị cho những ai quan tâm đến tiếng Việt cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
10. Tập du ký mới và kỳ thú về vương quốc Đàng Ngoài, Jean Baptiste Tavernier, Lê Tư Lành dịch, Nguyễn Thừa Hỷ hiệu đính- NXB Thế giới, 2005. Một ghi chép mà sau này bị Samuel Baron mắng mỏ chê bai tơi bời trong Description of the Kingdom of Tonqueen (1683) (Mô tả vương quốc Đàng Ngoài 1683). Samuel Baron cho rằng Tavernier đã mô tả thiếu chính xác về Đàng Ngoài thí dụ như những ghi chép về khí hậu, tên gọi các loại thực vật, diện tích lãnh thổ,  (Tavernier cho rằng diện tích Đàng Ngoài tương đương Pháp), sai lầm trên các bản đồ, và thậm chí tưởng tượng hoang đường nhiều tình tiết như lễ đăng quang lên ngôi của vua, theo Samuel Baron, Tavernier đã bịa đặt trắng trợn chi tiết này. Nói tóm lại những gì bác Tavernier cho là kỳ thú đều bị bác Samuel Baron dìm hàng thê thảm. Nhưng thực ra Samuel Baron hoàn toàn có lý khi phê phán những ghi chép của Tavernier.
11. An Tĩnh cổ lục, (Hippolyte le Breton), NXB Nghệ An, Trung tâm ngôn ngữ Đông Tây, 2005
12. Hà Nội giai đoạn 1873-1888, André Masson, Lưu Đình Tuân biên dịch, Nhà xuất bản Hải Phòng, 2003
13. Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài (1627-1646), Alexandre de Rhodes, đọc bản dịch tiếng Việt tại đây.
14. An Nam cung dịch kỷ sự (Ký sự phục dịch ở An Nam) của Chu Thuấn Thủy (tác giả làm quan dưới triều Minh. Nhà Minh mất ông lưu lạc sang Đàng Trong một thời gian. Không tìm được chỗ phát huy sở đắc của bản thân dưới trướng chúa Nguyễn, ông tìm đường sang Nhật Bản và trở thành một nhân vật rất nổi tiếng tại đây). Đọc bản dịch tại đây.
15. Xứ Đàng Trong năm 1621, Cristophoro Borri, Hồng Nhuệ-Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị dịch, chú thích, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1988). Đọc bản dịch tại đây.


16. Đông Dương ngày xưa và ngày nay, Henri Cucherousset, Vũ Công Nghi dịch, đọc bản dịch tại đây

17. Xứ Bắc Kỳ ngày nay, Henri Cucherousset, Trần Văn Quang dịch, đọc bản dịch và download tài liệu tại đây
18. Hải ngoại kỷ sự, Thích Đại Sán, Viện Đại học Huế, 1963.

Công trình nghiên cứu

1. Người nông dân châu thổ Bắc kỳ, Pierre Gourou, NXB Trẻ, 2003

3. Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII, Insun Yu, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994

4. Quan và lại ở miền Bắc Việt Nam một bộ máy hành chính trước thử thách (1820-1918), Emmanuel Poisson, (Đào Hùng & Nguyễn Khắc Sự dịch), NXB Đà Nẵng, 2006

5. Lịch sử Hà Nội, Philippe Papin, Nhã Nam và Nhà xuất bản Mỹ Thuật, 2009

6. Nước Đại Nam đối diện với Trung Hoa và Pháp 1847-1885, Yoshiharu Tsuboi, Nhã Nam và NXB Tri Thức, 2011.
           
7. Xứ Đàng Trong-Lịch sử kinh tế, xã hội Việt Nam thế kỉ 17 và 18, Li Tana, (Nguyễn Nghị dịch), NXB Trẻ, 1999. (Bản này của mình vốn chỉ có bản photo nhưng giờ đã biến mất trên giá sách, ngồi thiền nguyên cả tuần mà cũng không nhớ ra là đã cho ai mượn, thế có chết mình không cơ chứ. Hừ!)

8. Vùng đất Nam Bộ dưới triều vua Minh Mạng, Choi Byung Wook, Công ty cổ phần Từ Văn và NXB Thế giới, 2011.

9. The birth of Vietnam, Keith Weller Taylor, bản dịch tiếng Việt đọc tại đây.

10. Các bác có thể đọc bản dịch các công trình nghiên cứu người  nước ngoài viết về cổ sử Việt Nam của Ngô Bắc tại đây.

11. Các bác có thể download rất nhiều tài liệu số hóa người phương Tây viết về Việt Nam ở địa chỉ này.


 Phần tài liệu cổ  sử Trung Hoa ghi chép về Việt Nam sẽ nằm riêng ở một mục khác.

Monday, May 16, 2011

Tuệ đã sang bờ giác?


Có thể nói, bộ phim “Xuân Hạ thu đông rồi lại Xuân” của đạo diễn Kim Ki Duk thực chất chính là một bộ kinh Bát nhã ba la mật đa bằng hình ảnh. Bộ phim không định làm khó người xem bằng các thông điệp mã hóa, mà ngay từ cảnh đầu tiên cho đến cảnh cuối cùng, đồng thuận nhất trí, và hết sức rõ ràng, mọi hình ảnh, chất liệu trong phim đều quy chiếu về một điểm:Bát nhã ba la mật đa. Có những gợi ý hết sức trực diện như phông nền chuyển cảnh từ mùa này sang mùa khác là các bản kinh Bát nhã ba la mật đa bằng tiếng Hàn và tiếng Hán, âm nhạc trong trong những trường đoạn quan trọng của bộ phim chính là tiếng trì tụng của Ma ha bát nhã ba la mật đa tâm kinh (một trong hai bài kinh quan trọng bậc nhất của bộ kinh Bát nhã ba la mật đa)ở các dạng thức khác nhau. (Trường đoạn thứ nhất: chú tiểu với trò chơi buộc đá vào các con vật. Trường đoạn thứ hai: cảnh nhà sư đeo đá vác tượng Phật lên đỉnh núi). Ma ha bát nhã ba la mật đa tâm kinh cũng chính là bài kinh mà sư chủ trì dùng đuôi mèo viết lên sân chùa.

Tại sao khung cảnh của bộ phim lại diễn ra trên một ngôi chùa giữa sông với phương tiện vận chuyển qua lại là một chiếc thuyền? Vì Ba la mật đa theo tiếng Phạn có nghĩa là:  đến bờ bên kia (đáo bỉ ngạn). Không gian của bộ phim chia thành 2 bờ cách biệt: bờ bên này là ngôi chùa, và bờ bên kia là sau cánh cổng chùa. Biểu tượng cánh cửa chùa mở ra cũng xuất hiện lặp đi lặp lại giữa các mùa. Biểu tượng cửa thường tượng trưng cho nơi qua lại giữa hai trạng thái, hai thế giới. Cánh cửa là nơi người ta lựa chọn bước vào hay đi ra, nơi người ta phải quyết định. Những cánh cửa hiện hữu không tường trong bộ phim này còn hàm ẩn “phổ môn thị hiện”, một ám chỉ về “cánh cửa” nơi Avalokitesvara (Bồ Tát Quán Tự Tại hay thường được gọi dưới tên Quán Thế Âm Bồ Tát) dùng phương tiện từ bi và trí huệ để độ chúng sinh vượt qua khổ nạn. Chọn bối cảnh dòng sông với một con thuyền cũng mang tính ẩn ý bởi vì Avalokitesvara trong các hình tướng khác cũng được xem như là người chèo đò từ ái chở chúng sinh trên chiếc thuyền từ vượt qua bể khổ đi vào miền tĩnh thổ an lạc.

Trong bộ phim, ngăn cách giữa hai bờ chính là con sông như biểu tượng của dòng sông tâm thức, khởi nguồn từ vô minh nên dòng sông đó chất chứa phiền não, cấu uế, hạn hữu. Trong cả bộ phim, những trường đoạn tâm trạng quan trọng đều được thể hiện trên dòng sông. Khi là một đứa bé ngây thơ đầy tò mò học chèo thuyền loanh quanh vụng về trên sông. Khi là một thầy tu trẻ đang ở lứa tuổi đầy những khao khát bản năng đập mái chèo cuồng loạn trong một cơn khát nhục dục. Và khi là một người đàn ông tội lỗi điên cuồng chèo thuyền như muốn trút cơn hận. Nói đến tâm trí (tâm thức), Phật giáo cũng ví tâm trí của con người là một dòng sông luôn “hằng chuyển như bộc lưu”. Vì thế biểu tượng thác nước trong phim cũng chính là một tiếp nối của dòng sông tâm trí, một “thác nước” mê lầm cuộn lên những giày vò dục vọng và đau khổ. Chân thác nước trong phim là nơi diễn ra cảnh chú tiểu nhỏ buộc đá vào các con vật, là nơi cơn khát nhục dục đạt đến cao trào, là nơi người tu hành trẻ tuổi vụng về bày tỏ ái tình và là nơi kẻ sát nhân tự giày vò mình trong cơn đau khổ của hận thù. Chú tiểu nhỏ sát sinh, chàng thanh niên tu hành trẻ tuổi khát dục và người đàn ông giết vợ, vì vô minh mà  bị giam hãm trong quái ngại, vì vô minh nên vọng tưởng, vì vọng tưởng mà vạn lụy (tham, sân, si), không biết rằng mọi thứ trên thế gian này “sắc tức là không, không tức là sắc”,  mọi yêu thương và đau khổ chỉ là bộ mặt của mờ ảo của cô gái phản chiếu bập bềnh trên mặt nước, có đấy mà không đấy.

Bát nhã Ba la mật đa có nghĩa là: “tuệ sang bờ giác”. Bát nhã ba la mật đa tâm kinh là bài kinh thâu tóm tâm pháp của phép tu quán chiếu Bát nhã đưa hành giả lên bờ giác, trong đó Bát nhã được hiểu như trí huệ đặc biệt phát sinh từ công hạnh tu hành. Quán chiếu Bát nhã nghĩa là: trí huệ đạt đến cảnh giới rũ bỏ các tướng phân biệt, hiển hiện được Pháp tính chân như, tâm niệm bao trùm không còn phân biệt nội ngoại, thị phi, nhân ngã, khiến cho trí huệ ấy không chịu sự chi phối bởi ngoại tại, có thể thấu suốt mọi hiện tượng, thấu suốt được vô lượng khổ, độ qua được vô lượng kiếp. Muốn đạt đến cảnh giới đó không phải dựa vào công phu học tập tích lũy kiến thức, không thể dựa vào trí tuệ thông thường (trí tuệ thông thường khiến người ta biện thị phi, biện  nhân ngã-là nguồn gốc sinh ra khổ) mà bằng con đường hành trì và quán chiếu (kiên trì thực hành phép tu quán chiếu Bát nhã). Đó là lí do vì sao sư chủ trì là người chứng kiến hết thảy, thấy trước hết thảy mọi nguồn gốc của sự đau khổ, mê lầm nhưng không bao giờ ngăn cản chú tiểu khi nhìn thấy chú buộc đá vào các con vật, ông cũng không cố ý ngăn cản bản năng dục vọng của người thanh niên tu hành trẻ tuổi. Ông không giảng giải mọi thứ bằng lý thuyết, ông chỉ giải thích sau khi đồ đệ của mình đã tự trải qua các đau khổ. Bởi vì muốn đạt đến bờ giác, hành giả không thể chỉ nghe lý thuyết suông mà phải thực tế hành trì, phải tự mình hạ thủ công phu tu hành. Trong con đường hành trì đó có 3 mốc quan trọng  kiểm chứng công phu hành trì có kết quả hay không: Thứ nhất: Đã giải tỏa được mạn nghi? Thứ hai: đã vô úy? Thứ ba: có còn vọng niệm? Mạn nghi giam hãm người ta khiến người ta đau khổ, giận dữ, mê lầm, điên đảo trong vòng luẩn quẩn của yêu thương và thù hận. Bức tượng Phật nhỏ trong chùa chính là Bất Động Phật Aksobhya (một hình tướng của Phật lịch sử) cũng là một trong 5 vị Jinas. (Jinas: chỉ những người đã chinh phục được huệ thức, vượt qua được vòng luân hồi sinh tử) trong tư thế liên hoa tọa và thủ ấn ở dạng xúc địa ấn (lấy đất làm chứng), phản ánh khoảnh khắc giác ngộ khi Ngài chế ngự được dục vọng và tà vạy, biểu lộ tinh thần thuần túy của vô ngại. Ngài biểu lộ ước muốn sẽ không bao giờ sân si và luôn điềm tĩnh trong khi hoàn thành mọi nhiệm vụ mà tự mình đặt ra. Trước khi người tu hành trẻ tuổi rời chùa đi theo cơn khát của nhân dục anh ta đã mang bức tượng Bất Động Phật Aksobhya đi theo. Sau đó anh ta mang bức tượng trở lại chùa trong cơn điên cuồng của một kẻ vừa giết vợ. Bức tượng được trả về bệ cũ cũng là lúc con dao của tội ác vung lên. Và con dao tội lỗi chỉ được buông xuống sau khi khắc xong chữ cuối cùng trong bài kinh Ma ha bát nhã ba la mật đa tâm kinh. Gương mặt người khắc kinh ban đầu từ điên cuồng, sợ hãi, thắc thỏm, dè chừng, bình tĩnh dần, bình tĩnh dần, và khi con dao buông ra, chỉ còn lại một khuôn mặt ngủ im lìm mệt mỏi đến vô biên.

 Chỉ khi nào thoát được mạn nghi thì mới không còn gì sợ hãi. Không sợ hãi thì tâm không còn bị chi phối, mới đạt đến bình an. Người trung niên trở lại chùa với khuôn mặt không biểu cảm, bình thản tiếp tục cuộc sống tu hành của mình, lúc này ông bắt đầu luyện công phu. Là bởi vì người hành giả lúc này đã đạt đến bước rũ bỏ được sợ hãi, nhận thức được ngũ uẩn giai không, hộ trì được lục căn. Nhưng vọng niệm vẫn còn, vọng niệm đã đóng băng dòng sông tâm trí mà không biết rằng, dưới băng đá dòng tâm thức mê lầm vẫn đang chảy. Vì thế, chỉ khi người đàn bà đem con đến chùa chết trong hố băng, người hành giả lúc này mới bừng tỉnh, rũ bỏ được vọng niệm, thấu được vô lượng kiếp khổ của nhân sinh, ông đeo đá vào mình, vượt qua sông băng, vác tượng Phật lên núi. Trong bộ phim có 3 cảnh khắc họa tầm nhìn. Cảnh thứ nhất: khi chú tiểu đứng trên vai Phật nhìn về ngôi chùa. Đó là một cái nhìn cận cảnh, hình ảnh ngôi chùa phản chiếu trên mặt nước rất gần. Cảnh thứ hai: khi người tu hành trẻ tuổi đứng trên vai Phật: nhìn về phía góc ngoặt của con đường núi, đó là một cái nhìn về phía xa mù sương nhưng hẹp. Cảnh thứ ba: người tu hành trung niên sau khi đã buộc đá vào mình đưa tượng Phật lên đỉnh núi và ông ngồi Thiền ngay sau lưng Phật, cảnh quay bao trùm hết thảy cả không gian và ngôi chùa cùng dòng sông băng lọt thỏm nhỏ bé trong cái nhìn từ trên cao chiếu xuống.

Và bộ phim lại bắt đầu một mùa xuân khác với một hành trình khác để đi đến bờ giác ….

Cảnh cuối cùng của phim là cảnh bức tượng Phật Miruk (Maitreya) (hay còn gọi là Đấng Từ Thị, Phật Di Lặc-vị Phật tương lai hiện vẫn sống trong cõi Tusita (Đâu Suất) và mang thân trạng của một Bồ Tát) trong tư thế đặc biệt của mình di lặc tọa (tư thế suy tư) và thủ ấn di lặc ấn, (cũng chính là bức tượng mà người hành giả đem lên đỉnh núi), từ trên cao, dõi cái nhìn từ ái xuống phía dưới chúng sinh, như một sự nhắc nhở rằng: vượt qua, vượt qua đi, vượt qua để sang bên bờ giác.
Quách Hiền

Liên kết:
Vấn đề "giới hạn" trong Tam giáo

Monday, April 25, 2011

Lược sử cặp lồng ở xứ Việt Nam*

Nguồn ảnh: tại đây (còn ở đấy họ lấy ở đâu thì bạn QH chịu )
Chưa  khảo sát cụ thể nhưng tôi đồ rằng, hầu như gia đình nào ở Việt Nam cũng sẽ có một hai chiếc cặp lồng dự trữ phòng khi cần kíp. Cặp lồng với gia đình người Việt có lẽ cũng cần thiết như nồi cơm điện và bát đũa, những vận dụng thiết yếu hàng ngày.  Tại sao lại gọi là cặp lồng? Có phải vì cấu tạo có các ngăn lồng vào nhau nên có cái tên gọi ấy? Thấy bảo “cặp lồng” là dịch nghĩa của từ “cà mèn” (la gamelle) trong tiếng Pháp, như thế có nghĩa là lịch sử cặp lồng ở xứ Việt Nam chỉ có khoảng từ dưới 100 năm đổ lại. Dĩ nhiên sẽ có bác khẳng định chiếc cặp lồng sớm nhất của người Việt chính là mấy cái mo cau, hoặc có bác sẽ căn vặn lai lịch của chiếc cà mèn  Pháp xuất phát  từ đâu, nhưng thôi, việc khảo ấy là của các nhà ngôn ngữ học, các nhà sử học. Với tôi định nghĩa sớm nhất về cặp lồng chính là một cái hộp sắt tây hai ngăn màu xanh (đã tróc vảy) treo tòn ten trên ghi đông xe đạp nam (có gióng ngang) của bố thời bao cấp. Cái hộp sắt tây ấy cũng thường gắn liền với ký ức về những bát phở mậu dịch chỉ được mẹ mua về nhà khi chị em tôi ốm. Những bát phở ngày ấy khi mở nắp sắt tây ra, khói nghi ngút và mùi thơm xộc lên khiến người ta ứa nước miếng. Những bát phở đó (cũng giống như một vài món quà vặt khác của tuổi thơ như bánh quế, kẹo vừng, kẹo dồi, kẹo lạc) sẽ có một vị ngon vĩnh viễn không bao giờ tìm lại được cho dù hồi ấy thịt thì ít, nước thì chua và bánh phở thì lèo tèo chỉ cần hai lần lùa đũa là hết veo đi chăng nữa.

Khi chúng tôi lớn lên, trong nhà dần dần xuất hiện những chiếc cặp lồng khác, cặp lồng nhôm có, nhựa có; cặp lồng hai ngăn có, ba ngăn có, thậm chí bốn ngăn cũng có. Nhưng ký ức về chiếc cặp lồng cơm trưa bằng sắt tây của bố thời bao cấp bị xóa dần bằng ký ức về về những chiếc cặp lồng nhựa trắng nắp màu xanh đưa cơm (phở, bún, miến, cháo) cho người ốm, hoặc cho người chăm người ốm trong bệnh viện. Đó là những chiếc cặp lồng gắn liền với hình ảnh về những dãy giường đơn hai người nằm đảo đầu chen chúc, với những hành lang bệnh viện người nằm ngồi vạ vật và mùi thuốc sát trùng nồng nặc. Những năm ấy, nếu có ai đó dùng cặp lồng để đựng cơm trưa thì có lẽ là những công nhân ở các khu công nghiệp. Ở Hà Nội, đó là thời của cơm bụi lên ngôi. Những người lao động chân tay, những người thu nhập thấp, sinh viên, thậm chí một bộ phận nhỏ nhân viên văn phòng thời ấy chẳng quản ngại gì chuyện vệ sinh hay không vệ sinh đều chọn quán cơm bụi để giải quyết bữa trưa cho nhanh gọn. Đơn giản vì cơm bụi rẻ. Dăm món cả kho lẫn xào, một bát rau muống luộc dầm sấu (hoặc lá me) miễn phí đựng trong những ca nhựa sứt sẹo đặt sẵn trên các bàn cũng làm bằng nhựa nốt, hôm nào hứng chí lên thì gọi thêm cốc bia cỏ,  thế là xong một bữa. Sang hơn cơm bụi là cơm Tấm Sài Gòn. Tôi còn nhớ vài ba quán cơm Tấm ở đường Thái Thịnh đông nghẹt khách là nhân viên văn phòng vào các buổi trưa. Những năm ấy, đám nhân viên văn phòng cao cấp hơn nữa phần lớn buổi trưa sẽ xúng xính váy áo rủ nhau vào quán cà phê cơm đĩa máy lạnh, hoặc lang thang bún chả, bún nem, bún đậu mắm tôm, bún mọc, bún sườn….kê bàn bán đầy rẫy trên các dãy phố của Hà Nội. Những chiếc cặp lồng lúc ấy không tồn tại trong đời sống ăn trưa của nhân viên công sở Hà Nội.

Vài ba năm gần đây, chiếc cặp lồng cơm trưa đột ngột quay trở lại với đời sống nhân viên văn phòng Hà Nội dưới một dạng thức khác: đó là sự xuất hiện của các “lunchbox” Hàn Quốc. Đầu tiên là vì mấy năm gần đây thời tiết mùa hè ở Hà Nội quá khắc nghiệt, ngán cảnh lang thang tìm đồ ăn trưa, hoặc cảnh ngồi chen chúc nhau dưới cái nóng gần 40 độ C trong một quán ăn nào đó đã khiến lác đác nhiều chị em lựa chọn việc tự chuẩn bị cơm trưa rồi ngồi ăn ngay trong phòng làm việc máy lạnh cho nó sướng. Sau đó, do lo sợ các loại dịch bệnh ngày càng nhiều và ngày càng diễn biến phức tạp, rồi thực phẩm trong các nhà hàng không đảm bảo an toàn vệ sinh, và nhất là đến năm nay, do “bão giá”, những chiếc “cặp lồng”cơm trưa Hàn Quốc đang trở thành sự lựa chọn số 1 của chị em văn phòng Hà Nội.  Thay vì chiếc cặp lồng hai ngăn thô kệch như trước đây, những hộp đựng cơm trưa Hàn Quốc nhỏ gọn chia thành nhiều ngăn đựng được cả canh và thức ăn mặn với nhiều kiểu dáng kích cỡ xinh xắn, có túi đựng giống như túi đồ trang điểm của phụ nữ đang hiện diện ngày càng nhiều hơn trong các bữa trưa công sở. Có loại cấu tạo như một chiếc phích cỡ nhỏ, có thể giữ cơm nóng ở nhiệt độ 90 độ C trong 6 tiếng liền, giá khoảng 700.000 ngàn/1chiếc. Loại hộp của Komasu hơn 400.000 ngàn có chức năng hâm nóng cơm và thức ăn. Thông dụng hơn là những chiếc hộp giá khoảng 300.000 (không có chức năng giữ nhiệt) có bán ở các siêu thị đồ dùng Hàn Quốc khắp trong cả nước. Hơn nữa, việc chuẩn bị bữa trưa cũng không hề mất quá nhiều thời gian. Bữa chiều của ngày hôm trước chị em sẽ làm thức ăn và canh, rau nhiều hơn một chút rồi múc riêng ra cho vào tủ lạnh. Sáng hôm sau cắm nồi cơm, hâm lại canh và thức ăn đã có sẵn, cho vào hộp, lồng vào túi đựng, thế là đã sẵn sàng cho một bữa trưa vừa ngon lành lại vừa kinh tế. Những bưa trưa như thế cũng thường sẽ rất đặc biệt, mọi người lôi hộp cơm của mình ra, quây quần lại góp món ăn chung rất có hương vị hồi cố thân thương về những bữa cơm trưa cặp lồng đậu phụ kho hoặc muối vừng lạc rang thời bao cấp.

Vì thế, theo tôi dự đoán, xu thế của thời trang công sở năm nay, phụ kiện đi kèm sẽ là: túi đựng "cặp lồng cơm trưa Hàn Quốc". Và "cặp lồng cơm trưa Hàn Quốc" sẽ là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá mức độ sành điệu của một nhân viên văn phòng Việt Nam thời giá cả thị trường phi nhanh hơn tên lửa!

QH

Cho một buổi trưa cực kỳ buồn chán :)) :)) :))


Bonus: Bài này mới là "cặp lồng xịn", đầy hiện thực và giầu chất thơ nhá!

*Copy và sáng tạo tiêu đề từ “Lược sử máy kéo bằng tiếng Ukraina” (He he he)



Wednesday, April 20, 2011

Cổ sử (2): Notes

Trong “Lời giới thiệu” cuốn Những cuộc đời song hành (tập 1) của Plutarque (bản dịch tiếng Việt của dịch giả Cao Việt Dũng và Vũ Thọ-NXB Tri Thức) có một chú thích của dịch giả về cổ sử Hy Lạp và Trung Quốc như thế này:

“Đường lối chung của  của sử học Hy Lạp là trọng sở thị mà có phần coi nhẹ sử liệu….Cần nhấn mạnh rằng các sử gia Hy Lạp luôn phát ngôn với tư cách cá nhân, không đại diện cho bất cứ thể chế nào- đặc điểm này khiến cho họ khác căn bản với các sử gia cổ Trung Quốc”.

 Điều này đúng nhưng đó không phải là lý do căn bản. Hay nói một cách khác, dịch giả hiểu rất rõ bản chất của cổ sử Hy Lạp nhưng lại “hơi bất công” với cổ sử Trung Hoa (he he, “mỡ nó rán nó nhé”). Sự khác biệt theo tôi phải nằm ở chỗ: khái niệm về “sử” (nghĩa gốc nguyên thủy về “sử”) của người Hy Lạp và người Trung Quốc cổ đại hoàn toàn khác nhau . Xét về từ nguyên, historia trong tiếng Hy Lạp có nghĩa liên quan đến luật pháp là “điều tra” hay “biết được [sự thật] từ sự điều tra”. Historia lại trực tiếp bắt nguồn từ hístōr một từ với nghĩa là “người biết được [sự thật] vì anh ta đã thấy” (với nghĩa tương tự như “người làm chứng” trong luật pháp). Trước Herodotus historia thoạt đầu được hiểu như là một bước trong nhận thức luận hơn là một thể loại. Historia bắt đầu được ghi nhận như là một thể loại bắt đầu từ Herodotus. Trong bộ “Sử ký” của mình, Herodotus thực ra đã tiến hành một cuộc điều tra về chủng tộc, văn hóa,  xã hội. Ông đi đến tận nơi, chứng kiến, nghe ngóng và ghi chép lại những gì mình đã thấy, những ghi chép đó ông gọi là “sử”.

Ngay người Trung Hoa cũng khó khăn trong việc xác định “sử” là một thể loại bắt đầu từ bao giờ và lấy tác phẩm nào làm mốc, họ chỉ có thể nói các hoạt động ghi chép “sử” của họ còn hiện tồn (có thể chứng minh được niên đại) đến ngày nay là vào đầu thời Chu. Nhưng khái niệm của người Trung Hoa về “sử” thì còn sớm hơn trước đó rất nhiều, nó xuất hiện cùng với giai đoạn vu bốc văn hóa 巫卜文化 (hay “vu thuật văn hóa” (witchcraft culture) cũng vậy).  Trước tiên, hãy thử xem người Trung Quốc quan niệm thế nào là  “sử”

Photobucket




Theo Hán tự hình nghĩa phân tích từ điển, sử (xem hình ở trên) “là một chữ hội ý, bên dưới là thủ (tay), bên trên có người cho là thẻ trúc, có người  cho là dụng cụ săn bắn hoặc đồ tế lễ”. “Tay” ở bên dưới thì xem như các nhà nghiên cứu nhất trí cao độ rồi, nhưng “cái tay ấy” cầm cái gì thì vẫn còn đương tranh cãi rầm rĩ. Bác thì bảo nó là bảng trúc giản được buộc lại, bác thì bảo nó là cái dụng cụ để khoan mai rùa trước khi tiến hành nghi thức bói. Có bác còn bảo cái dụng cụ ấy ngoài chức năng khoan mai rùa còn dùng để cời lửa cháy trong nghi lễ theo mùa. Có bác lại bảo đấy là “ ngọn đuốc”, bác khác lại cho rằng nó là dụng cụ để giữ lửa. Nói tóm lại, tay cầm cái gì thì chưa xác quyết nhưng tất tần tật họ đều hướng về một điểm: cái phần chưa rõ đó nhất định có dính líu đến các nghi lễ tế tự và bói toán.

Có bao nhiêu cách phân tích tự hình “sử” thì có bấy nhiêu quan điểm về “nghề nghiệp” của các “sử”. Thí dụ như Đới Quân Nhân trong bài Thích sử (Giải thích về “sử”) cho rằng nhiệm vụ nguyên thủy của sử là “tu dự tế điển, tuyên giảng phù mệnh” . Thẩm Cương Bá thì cho rằng, “sử có nghĩa là chúc sử (祝史)”, là người trông coi các nghi lễ táng tế và soạn đọc chúc văn. Ác liệt nhất là cụ Trần Mộng Gia, với quan điểm “sử” tức “sự” , cụ liệt kê ra một bảng dài dằng dặc những việc gì thời cổ đại được cho là “ ” như: tế tự, săn bắn, chiến tranh, …và kết luận: “sử” chính là những người làm công việc chiêm bốc trong các nghi lễ tế tự, săn bắn, chiến tranh đã nêu trên. Nói  tóm lại theo các bác í thì có thể kết luận chức nghiệp của “sử” thời Trung Hoa cổ đại chính là: kiến thần tiếp quỷ.

 Ở đây có liên quan đến một quan điểm đã nhận được sự đồng thuận chung của cả giới nghiên cứu Trung Quốc: vu thuật 巫术 được xem là cội rễ văn hóa của họ. Sự nhất trí quan điểm “vu sử đồng nguyên” (“vu” và “sử” có chung một gốc) xem như đã thừa nhận sự xuất hiện từ rất sớm của một nhóm người được gọi là “sử” , một chức quan đứng trong hàng ngũ những người trông coi các công việc tế tự, y thuật và bói toán cho nhà vua. Hoặc cũng có thể hiểu là trong số các “vu”  thì có một loại “vu” được gọi là “sử” chuyên trách một nhiệm vụ nào đấy trong vô số các nhiệm vụ liên quan đến tế lễ và bói thời cổ. Điều này lí giải tại sao trong Quốc ngữ hay Tả truyện chép rất nhiều các chức quan khác nhau liên quan đến “sử” như: vu sử  , chúc sử 祝史, tế sử  祭史 , bốc sử 卜史,  phệ sử  筮史  ….Từ đó suy ra, những ghi chép nguyên thủy của “sử” thời Trung Hoa cổ đại sẽ là những ghi chép về các quẻ bói hay các nghi thức tế lễ.  Ngay đến cả dưới thời Thương, vẫn còn lưu giữ 18 đề mục bói toán bắt buộc phải thực hiện (xem cụ thể trong bài “Thần học chính trị trong văn hóa Trung Quốc cổ đại” của Dương Ngọc Dũng in trong cuốn Triết giáo Đông phương), trong số đó hầu hết là những việc bói toán liên quan đến những chuyện rất hệ trọng  như tế lễ, săn bắn, chiến tranh, bói hoàng hậu mang thai con trai hay con gái… vân vân vân. Như thế, khi các “sử” ghi lại các quẻ bói thì những việc có liên quan đến quẻ bói đó đồng thời cũng được chép theo. Mục đích chính của “sử” không hướng đến “chép việc”, mà là chép quẻ chiêm bốc để rồi sau đó xem nó có ứng nghiệm hay không. Để đúc rút kinh nghiệm các “sử” này thường kê cứu cả những ghi chép của tiền nhân, ghi chép lại những ghi chép của “sử” đời trước để tiện cho việc chiêm nghiệm. Truyền thống kê cứu sử liệu của sử học Nho gia cũng có nguồn gốc sâu xa từ đó. Sau này khi chuyển từ giai đoạn “vu thuật văn hóa” sang  giai đoạn “sử quan văn hóa”,  “sử” và “vu” dần dần phân hóa, “sử” trở thành một chức quan chuyên trách lo việc sách vở, “tàng thư, độc thư, trước thư”, rồi thành người “chép việc của vua”,  thậm chí còn chuyên biệt hóa thành tả sử, hữu sử: người chuyên chép lời của vua kẻ kia chuyên chép hành động của vua. Dẫu như thế, dấu ấn của “vu” vẫn tiếp tục duy trì trong những ghi chép sử của Trung Hoa, mà cụ thể ở đây là trong sử Nho gia. Nhưng đó lại là một câu chuyện rối rắm khác rồi.

Dài dòng cả đống trên kia cuối cùng không phải để nói chuyện sử Hy Lạp hay sử Trung Quốc, mà chỉ để nói một điều tiếp theo bài “Cổ sử” lần trước: Nếu nói rằng cổ sử của Việt Nam chúng ta đầy rẫy các huyền thoại và các sự kiện đã được nhuận sắc, như vậy cổ sử là không đáng tin cậy và những sử gia Nho học như Ngô Sĩ Liên chỉ là những người phát ngôn cho thể chế chính trị? Không phải như vậy.Vấn đề là những sử gia như Ngô Sĩ Liên quan niệm về sử không giống với quan niệm sử học của chúng ta hiện tại. Vấn đề là người đọc “sử” thời Ngô Sĩ Liên muốn tìm kiếm điều gì trong “sử” ? Đó có phải  là “các con số ngày tháng” hay “các dữ liệu”? Cần xác định rõ: vai trò "sử gia" thời trung đại không có vai trò giống như “nhà nghiên cứu lịch sử” theo quan niệm của người hiện đại. Vì thế khi đánh giá sử học của quá khứ chúng ta nên nhìn rõ vào bản chất của nó hơn là phán bừa: mấy ông sử học Nho gia toàn nịnh vua và nói láo!
                                                                                                                                   
Đương nhiên câu cuối là viết cho mình, tự dặn mình như thế!


Note của Note: Lần này để đề phòng bị bỉ báng lần nữa, em đã thay các anh mỹ nam Hàn Quốc thành các em mỹ nữ Hàn Quốc chân dài miên man rồi nhé.  Còn nữa, theo như một giáo sư Đại học Hokkaido thì âm nhạc của mấy em ấy  giúp phát triển trí tuệ đới! Vừa được ngắm chân lại vừa bổ não, thích nhá! :)) :)) :)) :))