Hàng mấy nghìn năm phát triển của chữ Hán không thể
nào sánh được với tốc độ giản hoá Hán tự trong vòng 100 năm qua tại Trung Quốc.
Trước phong trào Ngũ Tứ, chữ Hán có một địa vị “thần thánh” trong quan niệm của
người Trung Quốc, sau phong trào Ngũ Tứ, “đánh đổ chữ Hán” là một trong những mục
tiêu hàng đầu của những trí thức tinh anh của Trung Quốc thời bấy giờ như Tiền Huyền Đồng, Cù Thu Bạch,
Lỗ Tấn. “Văn tự tiến hoá luận” là cơ sở lý luận cho các quan điểm của các trí
thức và chính trị gia trong phong trào Ngũ Tứ. Theo họ, “chữ Hán” không chỉ là
vấn đề về “chữ” mà còn là vấn đề về chính trị.
Thứ nhất: Họ cho rằng quốc gia hưng vong có liên quan mật thiết đến chữ
Hán. Thứ hai: Họ khẳng định nguy cơ của văn hoá Trung Quốc đương thời có nguồn
gốc từ chữ Hán. Muốn phát triển văn hoá phải phế bỏ chữ Hán. Thứ ba: Họ chỉ rõ,
muốn mở mang dân trí phải từ bỏ chữ Hán vì chữ Hán chính là “vũ khí ngu
dân”. Thứ tư: Họ nhận định, chữ Hán có
tính giai cấp, là công cụ để phân biệt “bạn” và “thù”. Thứ năm: Họ thừa nhận,
chữ Hán, loại “văn tự hình nghĩa” là loại
văn tự lạc hậu, cần bị phế trừ, cần được tiến hoá. Tóm lại, các trí thức tinh
anh thời Ngũ Tứ phê phán chữ Hán ở hai điểm: Thứ nhất, “độ khó kỹ thuật” trong
thực dụng (bao gồm các vấn đề liên quan đến: viết chữ, phân biệt, trí nhớ, số
lượng ….); thứ hai là vấn đề năng lực biểu đạt của chữ Hán (chữ Hán là “đơn tự”
(chữ đơn), mỗi một chữ biểu đạt một nội dung cố định, đây là một cản trở trong
năng lực biểu đạt của chữ Hán).
Vì những người muốn đánh đổ chữ Hán là những trí thức
tinh anh, nên các quan điểm trên của họ có tính chất quyết định đến số phận của
chữ Hán tại Trung Quốc. 100 năm trở lại đây, dưới sự nỗ lực của tầng lớp trí thức,
chữ Hán đã được tiến hoá thành hệ thống chữ Hán hiện nay (thường được gọi là chữ
Hán giản thể) tại Trung Quốc. Các cách tiến hoá đã được áp dụng cho chữ Hán: La tinh hoá chữ Hán
(dùng thiết âm như đề xuất của Lương
Khải Siêu, Lộ Tráng Chương, Vương Chiêu; cải tiến cách dùng bính âm đã có từ thời Minh của các giáo
sĩ như Matteo Ricci, Sir Thomas Wade, Herbert Allen Giles) và giản hoá các nét
trong chữ Hán. Năm 1907 , Pháp bộ Thượng Thư Lao Nãi Tuyên
(1843-1921) xuất bản cuốn “Giản tự toàn phổ”. Năm 1920 nhóm của Tiền Huyền Đồng
đề xuất “Giảm tỉnh hiện hành đích bút hoạch đề nghị” (Đề nghị giảm bớt các nét
của chữ Hán hiện hành). Năm 1935, chính phủ Dân quốc công bố “Giản hoá tự biểu”
(Lần thứ nhất). Năm 1936, chính phủ dân quốc phế bỏ “Giản hoá tự biểu” (lần thứ
nhất). Năm 1956, chính phủ đại lục công bố “Giản hoá tự phương án”. Năm 1977,
chính phủ đại lục công bố “Đệ nhị thứ Hán tự giản hoá phương án” (bản sơ thảo). Năm 1986 chính phủ đại lục đỉnh chỉ “Đệ nhị
Hán tự giản hoá phương án”. Đại khái và tóm lại lần nữa, sau 100 năm trí thức
loay hoay, chữ Hán tại Trung Quốc đã được giản hoá triệt để các nét để nhằm giải
quyết yêu cầu về “độ khó kỹ thuật” trong thực dụng của chữ Hán. Để giải quyết vấn
đề năng lực biểu đạt của chữ Hán, chính sách của nhà nước Trung Quốc đối với chữ
Hán là “không tạo chữ mới”, “cố gắng hết sức không tạo thêm chữ Hán mới”, dùng
phương án “đa nghĩa hoá” các chữ đã có sẵn và phương án “cấu từ” (kết hợp các
chữ Hán đã có sẵn thành những từ biểu đạt một nghĩa mới).
Tiêu Ứng Kỳ (Jiao Yingqi), một nghệ sĩ ý niệm, nhà nghiên cứu, tốt nghiệp Học
viện Mỹ thuật trung tâm (CAFA) Bắc Kinh là một trong những người phản đối chính
sách “không tạo chữ Hán mới” của Trung Quốc. Theo ông, việc giản hoá các nét chữ
Hán và các phương án cấu tạo từ mới hiện nay không giải quyết được cả hai vấn đề
về độ khó kỹ thuật và năng lực biểu đạt của chữ Hán, chưa xét đến việc giảm nét
đã xoá sổ rất nhiều chữ Hán đã có. (Thí dụ chữ “vân” 雲
(mây) và chữ “vân” “云” (nói) vốn là hai chữ với hai nghĩa khác nhau
nhưng trong chữ Hán giản thể hiện nay chữ “雲” (mây) đã bị xoá sổ. Người Trung Quốc hiện nay dùng chung một chữ “云” cho cả hai nghĩa: mây và nói). Quan điểm của Tiêu Ứng Kỷ: Thứ nhất, về “độ khó kỹ thuật” trong thực dụng
của chữ Hán, khoa học kỹ thuật hiện đại (các bộ từ điển online và các công cụ đánh
chữ Hán trên máy tính) hoàn toàn có thể giải quyết được vấn đề đó. Thứ hai, về
“năng lực biểu đạt” của chữ Hán, Tiêu Ứng Kỳ cho rằng: các phương án hiện nay
đang sử dụng vẫn không thể đáp ứng được những nhu cầu biểu đạt mới cho chữ Hán.
Ông chỉ ra trên báo chí và các phương tiện truyền thông, các thuật ngữ như
“3G”, “GPS”, “GDP”, “MBA”, “EMBA”, “IPad”…không thể dùng chữ Hán nào có thể biểu
đạt được hàm nghĩa của chúng. Người Trung Quốc không còn sống ở thời đại “kim,
mộc, thuỷ, hoả, thổ”, hiện giờ là thời đại
của khoa học kỹ thuật, thời đại của văn hoá, của bùng nổ thông tin, vì thế người
Trung Quốc đã có những kinh nghiệm sống mới vì vậy cần phải tạo thêm những chữ
Hán mới với những hàm nghĩa mới để phù hợp với những kiến thức mới, kỹ thuật mới,
tư tưởng mới của thời đại mới. Tiêu Ứng Kỳ khẳng định: vấn đề của chữ Hán,
không nằm ở những yếu tố bên ngoài, mà nằm ở chính năng lực người sử dụng chữ
Hán.
Từ năm 1995, Tiêu Ứng Kỳ bắt đầu sáng tạo chữ Hán mới.
Đến năm 2007, ông đã tạo mới được hơn 400 chữ Hán, được tập hợp in trong cuốn “造字雜記”
(Ghi vụn về tạo chữ), phân thành 4 chủ đề chính: “những chữ liên quan đến phần
tử tri thức”, “những chữ liên quan đến thứ văn hoá làm hại con người”, “những
chữ liên quan đến ô nhiễm môi trường”, “những chữ liên quan đến khuynh hướng giới
tính”. Cuốn sách, đặc biệt, toàn bộ phần
lời tựa, và hậu ký đều được viết hoàn toàn bằng chữ phồn thể.
Tiêu Ứng Kỳ đã chia sẻ các quan điểm của ông về việc tạo chữ Hán mới cũng như quan điểm về quốc gia trong bài phỏng vấn do Kaitlin Rees thực hiện. Nguyên văn bài phỏng vấn và bản dịch (của Nha Thuyen) đã được in trong Tạp chí chuyên đề về “Nước” của Ajar Press . Trong bài phòng vấn, Tiêu Ứng Kỳ đã
nói “Bản thân ký tự tiếng Hán đã mang sẵn
trong nó tính chất bạo lực. Đó không phải là một ngôn ngữ mang tính trung tính,
giống như tiếng Anh nơi các ký tự không bao giờ chứa một hàm ý khi mà bạn viết
a, b, hoặc c. Các thành tố ký tự trong tiếng Hán đều có gốc từ việc biểu nghĩa
và vì thế chúng chuyên chở các gốc rễ này vào các từ mà chúng tạo thành. Chính
vì vậy đối với tôi, không có gì là bạo lực trong việc bẻ gãy các kí tự này; bạo
lực đã tồn tại từ trước trong ngôn ngữ này và điều duy nhất chúng ta có thể làm
là chống lại tính chất của bạo lực đó”.
Tạp chí
chuyên đề Nước của Ajar, xin xem giới
thiệu tại đây:
bài viết rất hấp dẫn
ReplyDelete