Saturday, August 22, 2009

Cao Bá Quát- một "hành nhân" cô độc của văn học Việt Nam thế kỷ XIX

Trong văn học phương Tây, hình ảnh những người cô độc lữ thứ tha hương luôn gắn liền với hình ảnh của một triết gia. Đó là những người chủ động lựa chọn sự “dịch chuyển” như một phương thức tồn tại. Ngược lại, trong văn học phương Đông, một “hành nhân cô độc” luôn gắn liền với hình ảnh về một kẻ bị lưu đày, có nhà mà không thể quay về, là những người trong tư thế “dịch chuyển” một cách thụ động.
Cao Bá Quát cũng là một người “bị lưu đày”, nhưng chính ông đã chủ động lựa chọn sự “dịch chuyển”, chấp nhận làm một hành nhân cô độc trên con đường đời gập ghềnh đầy sóng gió của mình.
Dường như số phận phải làm khách tha hương phiêu bạt đã được báo trước ngay từ khi Cao Bá Quát vừa bước chân vào nghiệp học. Theo những giai thoại chép trong Cao Bá Quát thi tập tựa (ký hiệu A.210), khi Cao Bá Quát lên tám có tìm đến thầy thụ học, đúng lúc ra đề “Tử tại Tề văn thiều” (Khổng Tử tại nước Tề nghe nhạc Thiều), thầy bảo ông viết một bài phú. Ông vẫy bút làm ngay một bài trong đó có câu kết rằng: “Ôi, bèo nước tương phùng, Khổng Tử là khách tha hương. Quan san khó vượt, Khổng Tử ngài thành người lạc đường (trái thời). Cho nên ngài ở Tề nghe nhạc Thiều.”. Những câu viết ra từ ngòi bút của một đứa trẻ chưa trưởng thành như ngầm một điềm báo về chính cuộc đời ông sau này.
Không khó để nhận thấy thơ Cao Bá Quát luôn đau đáu về một con đường, một phương hướng, một cái đích để vươn tới. Điều này được ông nhắc đi nhắc lại thông qua những từ liên quan đến “lộ” như : “trường lộ” (đường dài thăm thẳm), “uý lộ” (con đường đáng sợ), “lộ nan” (con đường khó khăn), “công danh nhất lộ” (đường công danh), “thế lộ” (đường đời), “đắc lộ” (đường thành công), “lộ cùng” (đường cùng), “lộ tận” (tuyệt đường), “trần lộ du du” (đường trần dằng dặc), “thản lộ” (đường bằng phẳng), “kế lộ” (con đường nối nhau). Hình ảnh con đường cũng hiện lên thông qua cụm từ khác như : “danh đồ” (đường công danh), “tráng đồ” (đường phát triển), “trường đồ” (đường dài), “bằng đồ” (con đường bằng phẳng),…
Ngay từ lúc chưa ra làm quan bản thân Cao Bá Quát cũng đã tự đặt ra những câu hỏi giẳng xé về con đường mà mình đang đi. Ông biết rõ người để chí vào “danh lợi” thì cả đời sẽ “bôn tẩu lộ đồ trung” (vất vả trên đường). Không phải ông không biết “thản lộ mang mang úy lộ đa” (Đường phẳng thì mờ mịt đường ghê sợ thì nhiều”. Ông tự băn khoăn: “Thiếu niên tật tẩu chung hà sự? Úy lộ man man trước lữ hoài?” (Kẻ thiếu niên cứ tất bật rốt cục là vì cái gì? Con đường ghê sợ còn dài, cứ canh cánh lòng người lữ khách). Ông tự biết con đường “công danh nhất lộ” “vất vả” như thế nào nhưng vẫn quyết chí xông pha: “Công danh nhất lộ kỷ hà nhàn? Quan cái phân phân ngã hành hỹ” (Đường công danh có mấy ai nhàn/ Mũ lọng nhộn nhịp, ta cũng đi đây). Ngay cả khi vì đường “danh” mà rơi vào cảnh ngục tù ông vẫn rất hiên ngang bước tới “Đạp hướng danh dồ bất điệu đầu/ Ngã vô hành dã, diệc vô lưu” (Bước lên con đường “danh” đầu vẫn ngay thẳng/ Ta không có nơi nào để đi, cũng chẳng nơi nào để lưu lại). Thậm chí trên đường đi “dương trình hiệu lực” ông vẫn đau đáu câu hỏi về con đường trước mặt “ Quyện mã thượng trường đồ” (Ngựa đã mỏi, đường dài, còn tính sao?). Để rồi khi được quay trở về Viện Hàn Lâm, ông cảm thấy thấm mệt trước con đường dằng dặc: “trần lộ du du song quyện nhãn” (Đường trần dằng dặc, đôi con mắt đã mỏi). Và rốt cục ông nhận ra rằng: “Tráng đồ bán tiêu tữ/ Thế lộ canh yên vân” (Đường đời như khói mây thay đổi/ Việc người như nóng lạnh thất thường).
Luôn đau đáu về con đường trước mặt, nên Cao Bá Quát vô hình chung đã lựa chọn cho mình là một “hành nhân” trên con đường đó. Thơ ông luôn có bóng dáng của một lữ khách tha hương. Trong bài Mộ đắc xá huynh quán dạ giam thư kiến ký, ông tự nhận mình cả đời này, thân ông chỉ là một “khách trên đường” “Bách niên thân thị khách” (Trăm năm thân chỉ là khách). Tần suất Cao Bá Quát tự xưng mình là “khách” xuất hiện rất cao với “quá khách” (khách trọ), “khách thoại” (lời khách), “khách phân ly” (khách xa quê), “khách đăng trình” (khách trên đường), “cửu khách” (khách lâu ngày), “khách sầu” (nỗi sầu của khách), “lộ khách” (khách trên đường), “khách tâm” (tấm lòng khách), “dị khách” (khách xa lạ), “trục khách” (kẻ bị trục). Nếu không là “khách” thì là “lữ” với : "lữ mộng" (giấc mộng người lữ khách), "lữ muộn" (nỗi buồn lữ khách), “lữ hồn phiêu bạc” (lãng đãng hồn lữ khách),.... Khi thì ông là khách trong khói sóng vạn dặm (Vạn lý yên ba do tác khách). Khi thì là khách giữa đường trong giá rét (hàn trung lộ khách). Phải chăng “làm khách thành quen”, nên nhiều lần ông nhắc đi nhắc lại bản thân mình quên mất mình là khách : “Tọa cửu bất tri thân thị khách” (Ngồi lâu không nhận ra thân mình là khách), “Tùy ngộ bất tri thân thị khách” (Tùy duyên quên mất mình đang là khách), “Khách cư hành dĩ biền” (Người ở mãi nơi đất khách gần như đã quen)…Là khách phương xa, nên nỗi đau mất người thân càng trở nên dai dẳng và ám ảnh. Trong bài Đắc gia thư thị nhật tác, khi nhận được tin chị gái mất lúc đang ở nơi xa, ông đã thốt lên: “Ô hô cốt nhục tình/ Viễn khách huống di trắc” (Than ôi! Tình cốt nhục/ Là khách phương xa, lại càng đau thương hơn). Đôi khi ông tự giễu cợt tình trạng lang thang cô độc của mình: “Dục tá đại quan tiêu lữ muộn/Khước tu tuyền thạch hướng nhân trào” (Muốn mượn cả vũ trụ để làm khuây mối sầu lữ thứ /Nhưng lại sợ dòng suối mỏm đá chế giễu cho)
Là vị khách tha hương đương nhiên cánh cánh bên lòng bao giờ cũng sẽ là “cố hương tình”. Vì lẽ đó thơ chữ Hán của Cao Bá Quát cũng luôn xuất hiện những cụm từ như: “cố hương mộng” (hay “hương mộng”), “mộng nhiễu gia hương”, “mạc mạc gia hương”, “hương sầu”,…
Đọc thơ Cao Bá Quát luôn cảm thấy ông đang trong trạng thái “di chuyển”. Khi thì ông ví mình là “phận ủy phi cô bồng” (một ngọn cỏ bồng lẻ loi phiêu dạt). Khi thì ông ví thân mình như một “ngạnh phiếm” (cành cây trôi giạt). Khi thì ông ngộ ra rằng:
Dư sinh nhất dã mã,
Phiêu chuyển tùy thiên phong
(Chính nguyệt nhị thập nhất nhật
di tống Thừa Thiên ngục tỏa cấm)
(Đời ta như một luồng hơi,
Di chuyển tùy theo gió trời,)
Có khi ông lại tự nhận mình giống như một con thuyền nhẹ lênh đênh đi mãi không về.
Phiếm phiếm khinh chu khứ vị hoàn,
Cô vân trú xứ thị cô san.
Cao lang chỉ tự mai hoa sấu,
Xuân tứ hồn như bệnh hạc nhàn.
(Du Tây hồ bát tuyệt, IV)
(Lênh đênh một chiếc thuyền nhẹ, đi mãi chưa về,
Nơi có đám mây chơ vơ kia là ngọn núi chơ vơ
Chàng Cao [chơi đấy] khác nào như cây hoa mai gầy gò
Tứ xuân lặng lẽ như chim hạc đang ốm
Một đời phiêu bạt, như con ngựa “thiên lý chạy nghìn dặm” (Bệnh trung), rồi cũng có lúc ông mệt mỏi tự hỏi: “du nhân quy bất quy” (kẻ lãng du có quay trở về hay không?).
Con người lúc nào cũng trong tâm thế “dịch chuyển” đó như Cao Bá Quát không thể có bạn đường. Hoặc nếu có bạn đường thì cũng chỉ là bạn đường trong chốc lát. Vì thế trong thơ ông, trải dài trên con đường lữ thứ tha hương của Cao Bá Quát là sự cô độc đến kinh người. Trong mắt ông, mọi sự vật đều có sự liên hệ đến sự lẻ loi, cô đơn với những con số như “nhất khinh âu” (một cánh chim âu nhẹ), "cô phàm" (cánh buồm côi), "cô mộng" (giấc mộng côi), "cô khách" (khách lẻ), "cô chường" (nỗi buồn đơn côi), "cô ảnh" (bóng lẻ), "cô bồng" (cỏ bồng đơn côi), "cô vân viễn" (mây xa lẻ loi), "cô thần" (bề tôi cô độc), "cô san" (ngọn núi cô độc), "cô đăng" (ngọn đèn lẻ loi), "cô nguyệt" (trăng lẻ), "cô quán" (quán lẻ), "cô hạc" (cánh hạc cô đơn), "cô phong" (gió cô đơn), "cô miên" (giấc mộng cô đơn), "cô các" (gác lẻ), "cô hoa" (hoa cô đơn),...
Ngay chính trong đời thực, Cao Bá Quát cũng đã là một “hành nhân cô độc”. Đối với dòng họ, ông bị xem là một kẻ “càn rỡ ngông cuồng”, “thân không kiểm thúc rồi đến thất chí, bại danh”([1]). Với bạn bè cũng vậy, khó có ai thấu hiểu được tâm sự của ông. Cao Bá Quát là một người rất quảng giao, bạn bè ông là những danh sĩ nổi tiếng khắp cả trong Nam ngoài Bắc như Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Văn Lý, Trần Văn Vi, Diệp Di Xuân,… Trong mắt họ, ông là một người bạn rất đáng ngưỡng mộ, rất đáng “yêu” đồng thời cũng rất đáng “sợ”. Cá tính lúc nào cũng muốn “vọt” ra khỏi tầm kiểm soát, những hành động bất chấp luật lệ của ông nhiều khi đã làm luỵ đến bạn bè([2]). Ngay với Phương Đình Văn Siêu, người thân thiết vô cùng với ông vậy mà cũng không thể chia sẻ với ông những nỗi niềm tâm sự trong lòng. Trong một bài thơ gửi bạn (Giản Nguyễn Phương Đình),Cao Bá Quát có những câu thơ hờn trách vừa giận dữ vừa rất chua xót :
Nhân bất mạ dư dư tự mạ,
Tiện yêu mạ nhân dư bất hạ.
Bình sinh toán chỉ kiến nhân đa,
Tam vị chi ngôn thắng đạm giá.
(Người không mắng ta, nhưng ta tự mắng ta,
Muốn ta mắng người ư, ta chẳng rỗi.
Trước nay tính dừng lại gặp nhiều người,
Lời nói khi có ba chén rượu mùi còn hơn cây mía nhạt nhẽo)
Chính sự cô độc ngay ở giữa bạn bè thân thiết là lý do khiến ông ngậm ngùi thốt lên:
Tứ hải tri giao vô ngã chuyết,
Bách niên tâm sự cộng thuỳ khai
(Bạn bè bốn biển chẳng ai vụng về như ta
Vì thế nên tâm sự trăm năm biết bày tỏ cùng ai ?)
(Bạc xuân giản Nguyễn Chính Tự)
Trong một xã hội mà mọi ứng xử của kẻ sĩ đều tuân thủ theo mực thước khuôn phép Nho gia, Cao Bá Quát không giả vờ khiêm tốn nhún nhường, cũng không chịu cam khuất mình trước quyền lực và lại càng không chịu chấp nhận lui vào trong bóng tối để được an thân như những kẻ sĩ cùng thời, trong đó có nhiều bạn bè thân thiết của ông. Tại sao ông không giống như những người bạn trí thức Bắc Hà khác (như Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Văn Lý, Vũ Tông Phan) chấp nhận sự đào thải, rời khỏi triều đình quay về mở trường dạy học ở đất Thăng Long? Tại sao một người xuất thân trong gia đình có truyền thống Nho học lâu đời như Cao Bá Quát cuối cùng lại chọn con đường nổi loạn chống lại triều đình?
Cao Bá Quát không chỉ là con người trong tư thế luôn "dịch chuyển" theo nghĩa chuyển động thông thường. Ông còn là một con người luôn trong tư thế "dịch chuyển" về tư duy và nhận thức. Nếu nhìn vào tiến trình sáng tác thơ văn của ông theo chiều thời gian, chúng ta sẽ thấy không phải Cao Bá Quát ngay từ đầu đã có ý thức về việc “lựa chọn con đường làm người khác biệt”. Xuất phát điểm Cao Bá Quát vẫn khao khát được phụng sự triều đình giống như nhiều nho sĩ đương thời. Trong bài Đắc thư gia thị nhật tác, Cao Bá Quát tự nhận :
Dư sinh phù danh ngộ,
Thập niên trệ văn mặc.
Gian nan nhất đệ hậu,…
(Đời ta trót vì cái danh hờ
Hàng mười năm chìm đắm trong bút mực
Sau bao khó khăn thi mới đỗ được,…)
Con người Cao Bá Quát xét ra rất mâu thuẫn. Con người tự phụ một mình chiếm ba bồ chữ trong thiên hạ như Cao Bá Quát lại luôn tự nhận rằng vì lỗi của bản thân nên mới thi trượt: “Sơ chuyết tự chiêu thắc/ Bổ quá niệm di thâm” (Chỉ vì mình vụng về tự rước lấy lỗi/ Chìm đắm suy tư để sửa lỗi lầm). Cao Bá Quát rất nhiều lần nhắc đến chuyện “sửa sai” này trong thơ của mình giai đoạn trước khi ra làm quan. Trong bài Đình thí hậu trình chư hữu ông viết: “Bế các hữu hoài thâm bổ quá” (Đóng cửa có lòng suy nghĩ về những lỗi lầm của mình). Trong một bài khác Đắc thư gia thị nhật tác Cao Bá Quát cũng viết: “Thị hành lý vận lai/ Tuần tỉnh mỹ bất khắc” (Lần này theo vận mà đi/ Đã xét mình sửa chữa hết mọi lỗi lầm). Cao Bá Quát nhẫn nhịn gắng gỏi mười năm “sửa chữa lỗi lầm” hết lần này đến lần khác chỉ để được đặt chân vào chốn quan trường.
Nhưng cửa quan vừa hé ông đã tự mình đi thẳng ngay vào cửa ngục. Ông đã chờ đợi mười năm mới được đặt chân vào chốn quan trường tại sao lại nhanh chóng vứt bỏ tiền đồ để ngoặt sang một hướng khác đầy quanh co khúc khuỷu?
Trước khi ra làm quan Cao Bá Quát vẫn còn hào hứng với “danh”, một cái “danh” gắn liền với tài văn chương chữ nghĩa. Nhưng trải theo thời gian, cùng với những biến cố thăng trầm của đời mình, Cao Bá Quát càng thấm thía cái danh đó là hão huyền và không có thực. Chúng ta có thể thấy được sự chuyển biến trong nhận thức và tư duy của ông về “danh” theo những mốc thời gian trong bảng thống kê sau.
Thời gian
Quan niệm về danh của Cao Bá Quát
Trước khi ra làm quan
- Nhập thế hữu văn chương- Đào danh hà sở mộ (Vào đời phải có văn chương- Trốn danh thì hâm mộ cái gì?)
- Cổ lai danh lợi nhân- Bôn tẩu lộ đồ trung (Những kẻ danh lợi xưa nay- Vất vả ngược xuôi trên đường đời)
- Trượng phu tam thập bất thành danh (Kẻ trượng phu ba mươi tuổi mà vẫn chưa thành danh)(Du Đằng giang dữ hữu nhân đăng Kim Chung tự, túy hậu lưu đề, tính tự)
- Vị luyến minh triều học tố quan/ Nhất danh lạo đảo vị ưng nhàn (Vì mến Hoàng triều thánh minh, nên lo học để theo đường hoạn lộ- Lâu nay một chữ danh trầy trật không xong nên chưa thể thanh nhàn (Đình thí chư hậu trình chư hữu)
- Ngán nhẽ kẻ tham bề khóa lợi, mũ cánh chuồn đội trên mái tóc, nghiêng mình đứng chực cửa hầu môn/ Quản bao người mang cái giàm danh, áo giới lân trùm dưới cơ phu, mỏi gối quỳ mòn sân tướng phủ. (Tài tử đa cùng phú)
Khi bị giam vì tội chữa bài thi
- Dư sinh cơ bạn chỉ vi danh (Đời ta gặp nạn cũng chỉ vì danh)
- Đạp hướng danh đồ bất điệu đầu- Ngã vô hành dã, diệc vô lưu. (Ngẩng cao đầu bước trên đường danh – Ta không làm việc gì và cũng không có gì phải lưu luyến)
Khi được tha về làm ở Viện Hàn lâm
- Cố nhân nỗ lực sự công danh/Tản nhân qui khứ ngọa giang thành (Cố nhân đều nỗ lực vì danh – Còn kẻ tản nhân quay về nằm khểnh ở thành ven sông) (Đông Tác tuần phủ tịch thượng ẩm)
- Ô hô nhất danh cơ bạn trường như thử/Bạch phát, thanh bào, ngô lão hỹ! (Ôi, một chữ danh dài như thế- Tóc bạc, áo xanh ta đã già rồi) (Đề sát Viện Bùi Công Yên Đài anh ngữ khúc hậu)
- Dĩ yếm phong trầm do đạm bạc- Khẳng tương danh lợi dịch ngu sơ (Đã chán phong trần mùi đạm bạc- Dám đem danh lợi sánh với vụng về)(Nhàn vịnh)
Chưa rõ thời gian
- Kỷ đa danh lợi chung triêu vũ- Vô số anh hùng nhất tụ trần (Phần lớn danh lợi cuối cùng như mưa buổi sớm –Anh hùng đâu ở mãi trên trần thế) ((Xuân dạ độc thư)
- Nhập thế công danh hồn trụy tắng/ Truyền gia thư sử mạn đồ long (Con đường công danh giống như là rơi chõ – Sách vở truyền gia không bằng có dao giết rồng) (Bệnh trung, hữu hữu nhân chiêu ẩm tịch thượng tác)
Quá trình nhận thức của mỗi người là một hành trình khác nhau, với kẻ sĩ trung đại cũng thế, có người đi đến cuối con đường nhận thức để rồi chấp nhận hiện thực, nhưng có người đến cuối chặng đường nhận thức để rồi phản kháng. Cao Bá Quát là một người như vậy. Từ một người tha thiết với danh, cuối cùng Cao Bá Quát đã hoàn toàn thất vọng và vỡ mộng.
Phải chăng trước tiên đó là sự vỡ mộng, một sự vỡ mộng ngay từ rất sớm? Ngay từ khi vướng vào tù ngục ông đã nhận thấy:
Vãng lại vô định căn,
Chỉ tại đại khối trung
(Chính nguyệt nhị thập nhất nhật
di tống Thừa Thiên ngục tỏa cấm)
(Đi lại không nhất định nơi nào,
Chỉ trong vòng trời đất)
Ông chỉ là một hạt bụi cô độc, dù tự do nhưng cũng vẫn chỉ là sự tự do trong khoảng giới hạn của trời đất.
Đã có rất nhiều học giả lý giải nguyên nhân dẫn đến sự nổi loạn của Cao Bá Quát từ những tác động ngoại cảnh như : sự đối xử bất công phân biệt kẻ sĩ Nam Bắc trong triều đình nhà Nguyễn, sự chán chường bế tắc trước tiền đồ và sự vượt trước trong nhận thức của Cao Bá Quát đối với sự đổ vỡ của những giá trị mang tính ý thức hệ đã khiến ông trở thành một trí thức “ly tâm”. Nhưng theo chúng tôi, một lý do không kém phần quan trọng khác đó là bản thân trong con người Cao Bá Quát dường như tiềm ẩn một sự thôi thúc dấn thân vô thức, nó chính là xung lực ngầm khiến Cao Bá Quát ở những thời điểm nhất định có những hành động “vượt ngưỡng” mà không cần lý do định trước. Chính sự thôi thúc dấn thân này của Cao Bá Quát đã đẩy ông ra khỏi sự cố kết của đám đông, đẩy ông đứng tách hẳn khỏi bè bạn, đẩy ông bước đi một mình trên con đường “độc hành” không thể chia sẻ cùng ai.
QUÁCH HIỀN
(Trích bài giới thiệu từ cuốn Cao Bá Quát-tác phẩm chọn lọc, NXB Giáo Dục, 2009)



[1] Trích Trần tình biểu của Cao Bá Nhạ.
[2] Theo Đại Nam thực lục, trong sự việc Cao Bá Quát sửa bài thi, Nguyễn Văn Siêu cũng bị liên đới (cho Quát ngủ nhờ một đêm) nên bị phạt đánh trượng. Trong Đại Nam liệt truyện (nhị tập), không nói rõ nguyên nhân, chỉ chép rằng “Vào năm Thiệu Trị thứ nhất (1941), ông [Nguyễn Văn Siêu] giữ chứcViên ngoại lang Bộ Lễ, do bị tội nên bị miễn chức”, có lẽ là nói về chuyện trên. (Tham khảo : Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện, Truyện Nguyễn Văn Siêu, quyển 33 (NXB Thuận Hoá, 1997, tr. 189 - 190).

6 comments:

  1. Nếu cụ Cao (không phải cụ Nhị hay cụ Cao Nhị ;)) ở Tây thì sao ạ?

    ReplyDelete
  2. @Nhị Linh: Rồi nhé!
    @Chị So: Dạ, một bài tập làm văn ấy mà chị ơi: ))
    @Khuê Việt: Nếu cụ Cao ở Tây thì cũng sẽ là "một áng mây trời không thuộc về nơi nào cả" :)) :)) :)) :))

    ReplyDelete
  3. "Sự đối xử bất công phân biệt kẻ sĩ Nam Bắc trong triều đình nhà Nguyễn", riêng về mặt này, có thể coi đây là "sự bất công với triều đình nhà Nguyễn". Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Tri Phương cùng bao nhiêu người khác đều là kẻ sĩ Bắc Hà, có thăng có trầm nhưng không thể gọi là họ bị bạc đãi, kể cả trong thời kỳ mà miền Bắc nổi loạn khắp nơi. Trong triều có kẻ này kẻ khác, lúc này lúc khác, nhưng những nhân sĩ Bắc Hà mang sẵn cái hận "mất kinh đô" chỉ cần có dịp là đổ lỗi cho kẻ khác. Cả trong thời kỳ sau này cũng vậy.

    Cuộc nổi loạn của Cao Bá Quát nói cho cùng chỉ vì chính bản thân mình, và thỏa mãn được tâm lý "trọng danh" của ông. Ông không hề có 1 con đường nào cho mình, không biết cách mình làm sẽ dẫn đến đâu, thậm chí không biết lời kẻ khác trách mình là sai hay đúng. Cuộc nổi loạn của ông phò trợ một người nhà Lê ngay từ đầu đã là ngõ cụt. Cuộc dấy loạn ấy chỉ làm ồi tệ thêm tình hình đất nước, và nói cho cùng, chỉ làm thỏa mãn ý thức "chống triều đình phương Nam" của giới Nho sĩ Bắc Hà.

    Nói rằng Cao Bá Quát nhận thức được sự đổ vỡ các giá trị xưa là đúng mà cũng không hẳn. Ông chỉ nhận thức được rằng giá trị của bản thân sẽ mất. Những thứ văn chương kinh sử mà ông bỏ cả đời theo học không có lợi ích nào so với "kiến thức mới", ông nhận ra qúa trình tận diệt của mình. Nhưng đâu phải chỉ có 1 mình Cao Bá Quát nhận thấy, ngay cả triều đình cũng nhận thấy, cũng cho thay đổi. Ngay từ thời Minh Mạng, vua đã cho dịch sách khoa học nhưng không nhận được sự hưởng ứng từ các Nho sĩ. Sự vỡ mộng của Cao Bá Quát là sự vỡ mộng của các Nho sĩ nói chung, giới Nho sĩ Bắc Hà nói riêng. Giới Nho sĩ Nam Hà, với bản chất đã quen với các tiến bộ thời đại, chấp nhận và thích nghi nhanh hơn nhiều, và cũng chính họ bảo vệ cho các giá trị Nho gia kiên quyết nhất, cho rằng nó không đi ngược với sự phát triển của xã hội. Bắc Hà với sự đóng cửa, sự thủ cựu của mình - ngay từ thời Lê, thời Mạc - đã vỡ mộng, thế thôi.

    Sự phản kháng của Cao Bá Quát phải được xét trong điều kiện thời đại, đó là phản ứng "Không thành công thì cũng thành nhân". Đó là một sự "tự hủy" để giữ vững các giá trị của riêng mình.

    ReplyDelete
  4. @Cao nhân ẩn danh:

    Dạ, trước hết xin cảm ơn vì đã có những lời trao đổi thẳng thắn và thực sự hữu ích. Thực ra, bài viết này chỉ đang ở dạng sơ giản, có nhiều ý mà người viết không thể triển khai hết trong một bài bị hạn chế về nhiều mặt( yêu cầu độ dài của câu chữ, đối tượng độc giả), nhân tiện đây muốn có một đôi lời trao đổi lại làm sáng tỏ thêm vài điểu....

    1. Không biết anh (chị, bác, chú, cô????) quan niệm thế nào là "kẻ sĩ Bắc Hà", nhưng theo quan điểm cá nhân thì tôi không xếp Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Tri Phương là "kẻ sĩ", chứ chưa nói là "kẻ sĩ Bắc Hà".

    2. Tuy còn cần nhiều bàn cãi, những nhưng gì có thể đọc thấy trong sử chính thống thì rõ ràng vấn đề "Bắc-Nam" là một vấn đề rất nhạy cảm dưới triều các vua nhà Nguyễn. Dưới triều Minh Mệnh, việc quan lại Bắc Nam mâu thuẫn với nhau, chia bè kéo cánh đã được ghi trong sử sách, đến mức Minh Mệnh có lần đã phải thốt lên "Các ngươi cũng vừa phải thôi". Ngay cả trong quân ngũ, vào khoảng năm Minh Mệnh thứ 16,Nguyễn Công Trứ cũng từng dâng sớ xin chia lính thành hai vệ Nam, Bắc riêng biệt...

    Để có thể biết được là có sự đối xử bất công hay không có lẽ chúng ta nên làm một con số thống kê cụ thể. Chỉ đơn giản là làm vài mẫu chọn, vẽ lại biểu đồ thăng tiến của quan lại Nam Bộ, so sánh với những số liệu của "Quan và lại ở miền Bắc Việt Nam" của Emmanuel Poisson, sẽ thấy được sự khác biệt...Đấy là chưa kể, đối với vùng Nam Bộ, trong giáo dục và khoa cử có nhiều ưu đãi nhất định hơn so với những người xuất thân Đàng Ngoài: đặc cách đỗ vớt, có người được cất nhắc lên quan vì chữ viết đẹp...vân vân....

    Tuy nhiên, tôi đồng ý một điểm, rõ ràng dưới triều các vua nhà Nguyễn, quan lại bị thăng giáng là chuyện thường, cả trong Nam lẫn ngoài Bắc. Hơn nữa họ cũng thường xuyên phải thuyên chuyển từ vùng này sang vùng khác. Tôi cho rằng ngồi một chỗ mà cai quản cả một đất nước thì đây là cách duy nhất các vua nhà Nguyễn dùng để kiểm soát quyền lực của quan lại, hạn chế sự nổi loạn của họ.....(Minh Mệnh đã từng làm thế với Nguyễn Công Trứ và nhiều quan lại khác)...

    3. Về nhận thức được sự đổ vỡ của các giá trị xưa của Cao Bá Quát, có một chi tiết mà người viết bài rất tiếc không thể khai thác hết trong bài viết: đó là chuyến đi dương lực hiệu trình của Cao Bá Quát đến Batavia năm 1844. Chuyến đi chuộc tội này của Cao Bá Quát do Tả tham tri Bộ Hộ Đào Trí Phú và Phó sứ Viên Ngọai Lang Nội bộ phủ Trần Tú Dĩnh dẫn đầu. Có một điều đặc biệt là sau chuyến đi này trở về Cao Bá Quát và Đào Trí Phú sau đó một thời gian đều tham gia vào những cuộc nổi loạn khác nhau chống lại triều đình và đều chịu cảnh rơi đầu....

    Sự xuất hiện của công ty Đông Ấn và những chuyến đi sứ vượt ra ngoài phạm vi Trung Hoa rõ ràng đã đánh mạnh vào nhận thức của nhiều trí thức dưới thời Nguyễn. Rõ ràng đã tồn tại một vùng đất mới, một "giống người mới", một thứ ngôn ngữ mới...Những câu hỏi khác đã đặt ra với họ thay vì câu hỏi quen thuộc...Chuyến đi này và những cuộc tiếp xúc của Cao Bá Quát sau đó khi ông về Viện Hàn Lam đã tác động như thế nào đến ông được Calaudine Salmon và Tạ Trọng Hiệp chứng minh rất thuyết phục trong bài "Sứ thần Việt Nam Cao Bá Quát và nhận thức của ông qua chuyến đi công cán vùng Hạ Châu"...

    Minh Mệnh là một ông vua tiến bộ, tuy nhiên ông vẫn không thể loại bỏ được quyền lực của đình thần. Các đình thần đóng một vai trò quan trọng trong nhiều quyết sách của Minh Mệnh, điều này có thể đọc thấy rất rõ trong sử chính thống của nhà Nguyễn...

    Thực chất, giới Nho sĩ Bắc Hà với một tầng sâu văn hóa, sự trì kéo của truyền thống, vì thế thực ra họ dễ dàng lấy sự chiêm nghiệm trong lịch sử để điều chỉnh trạng thái "vỡ mộng", như nhóm Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn Siêu, Vũ Tông Phan với hoạt động của hội "Hướng thiện" tại Hà Nội là một ví dụ. Còn Cao Bá Quát, có lẽ giống như người comment đã nói: phải chăng đó là một sự "tự hủy" để giữ vững các giá trị của riêng mình?

    ReplyDelete