Friday, June 3, 2022

Đánh cờ

 A: Bởi vì toàn cục, họ chỉ cân nhắc đến những quân cờ sẽ cần dùng đến trên bàn cờ của họ.

B: Làm quân cờ có gì vui chứ. Nếu thắng còn đỡ, thua thì chính là "đồ sát". Mà nếu lỡ có bị xem là quân cờ thì cũng nên là quân cờ không phải ai cũng điều khiển được.

Dạo gần đây toàn nghe những từ như "quan kỳ bất ngữ", "hư chiếu" với "ám chiêu". Giang hồ cách mình đâu xa.


Monday, April 25, 2022

Lý Trạch Hậu và Triệu Sĩ Lâm

"Triệu Sĩ Lâm là học trò của tôi, cậu ấy viết cuốn sách này mà không cho tôi biết. Bởi vì  cậu ấy biết tôi sẽ không đồng ý cho cậu ấy viết linh tinh khi đang chuẩn bị làm luận án tiến sĩ. Cậu ấy viết xong rồi mới nói với tôi. Tất nhiên là tôi không còn cách nào khác, không lẽ lại bảo cậu ấy đốt bản thảo. 

Nhưng tôi cự tuyệt đọc bất cứ một từ nào và cũng không có bất cứ trách nhiệm nào về cuốn sách này. Cho nên phần bàn về tôi, rốt cục là đúng hay sai, là tốt hay xấu, là công bằng hay thiên kiến tôi không biết. Phần bàn về người khác, cũng như vậy. Từ trước tới nay, đối với những quan điểm tán thành hay phản đối tôi, ủng hộ nhiệt liệt hay phê bình dữ dội tôi, chỉ cần xuất phát từ nhu cầu và lập trường thảo luận học thuật tôi đều đối đãi như nhau. Còn đối với những ý kiến công kích hoặc thổi phồng vì mục đích khác, ngoại trừ vài lần viết (thực ra dùng lời nói là chủ yếu) tôi có ý giễu cợt châm biếm thì phần lớn tôi không bận tâm. Khen, chê do người, tự biết do mình. Nếu đã vậy thì học trò bình luận đánh giá về tôi như thế nào tôi lại càng không để ý. 

Theo lời của Sĩ Lâm, vì không muốn ảnh hưởng đến việc chuẩn bị và viết luận án tiến sĩ, cậu ấy đã viết cuốn sách này ngoài giờ làm việc, lúc đêm hôm khuya khoắt. Tuy cậu ấy tuổi trẻ sung sức, tinh khí dồi dào, nhưng thật ra vẫn vô cùng vất vả. Tôi hy vọng, một tác phẩm được tạo ra từ công sức chân chính sẽ được độc giả đón nhận. 

Cũng theo lời cậu ấy, nhà xuất bản nhất định muốn tôi viết Lời tựa, vì vậy tôi cũng nhân dịp này mà nói rõ đôi lời ". 

(Lời tựa cuốn "Khái thuật nghiên cứu Mỹ học Trung Quốc đương đại" của Triệu Sĩ Lâm)

*Triệu Sĩ Lâm: Năm 1985 ông là nghiên cứu sinh tại Học viện Khoa học Xã hội Trung Quốc. Luận án tiến sĩ triết học (chuyên ngành mỹ học) của ông do Lý Trạch Hậu chỉ đạo hướng dẫn. Ông từng là nghiên cứu viên thuộc phòng nghiên cứu chính sách, Bộ Văn hoá, Trung Quốc, là nhà nghiên cứu khách mời của Đại học Tokyo, Nhật Bản, từng tham gia chương trình trao đổi học giả tại Đại học Harvard, Mỹ.  Hiện ông là giáo sư Khoa Triết học và Tôn giáo, Đại học Dân tộc Trung ương Trung Quốc, chủ tịch Hiệp hội Mỹ học Trung Hoa, nhà nghiên cứu của Hiệp hội Văn hoá Mỹ Trung (American Chinese Culture Association). Các tác phẩm chính của Triệu Sĩ Lâm: Khái thuật nghiên cứu mỹ học Trung Quốc đương đại, Tâm học và Mỹ học....


Saturday, April 9, 2022

Tuesday, February 25, 2020

Độc sử nghi vấn (1)


1. Công ty Đông Ấn có lập trường học/hoặc một cái gì đó tương tự như trường học ở Việt Nam không?

2. Các sắc lệnh quy định kết hôn (đạo đức hôn nhân) giữa những người đại diện của công ty thương mại (ví dụ công ty Đông Ấn Hà Lan) với phụ nữ bản địa có được áp dụng vào trường hợp của Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII?

3. Các vụ án tình dục (hiếp dâm) phụ nữ bản địa của người phương Tây sẽ được xem xét/xét xử như thế nào tại An Nam thế kỷ XVII-XVIII?

4. Dân chúng có được phép trực tiếp giao dịch trao đổi buôn bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài?

5. Một nghiên cứu rất đáng mong đợi của chị Yufen Chang khi chị khảo sát cho thấy các khu vực ven biển (hải thương phát triển) có tỷ lệ người đỗ TS (dĩ nhiên thời trung đại) cao hơn các khu vực khác trong nội địa của Việt Nam. Câu hỏi là tại sao?

6. Và câu hỏi cuối cùng liên quan ít nhiều: Quan lại Việt Nam sống bằng gì? Lương hay bổng? Các thống kê kiểu định lượng cho lương của quan lại là không bao giờ chính xác. Câu chuyện thu nhập của quan lại thời trung đại cũng như ma trận sổ sách của kế toán thời đương đại. Nhất là nhìn vào trường hợp các quan cai quản công việc thương mại với người nước ngoài.

Monday, October 14, 2019

CÕNG MỘT ÔNG “THÁNH HIỀN”

Đây là bài viết của nhà phê bình văn học Nguyễn Chí Hoan về tiểu luận nhỏ của tôi in trong cuốn "Nghiên cứu Nho giáo Việt Nam: Quan điểm và phương pháp" (Nguyễn Kim Sơn chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia, 2018). Chân thành cảm ơn anh vì những chia sẻ anh đã dành cho bài viết. 

CÕNG MỘT ÔNG “THÁNH HIỀN”

************************
“Với đối tượng nghiên cứu chính là Tứ thư Ngũ kinh Tính lý Toản yếu (từ đây gọi là bộ Toản yếu) do Nguyễn Huy Oánh biên soạn và Tứ thư Ngũ kinh Tính lý Tiết yếu (từ đây gọi là bộ Tiết yếu) nguyên bản thuộc họ Bùi (vẫn thường được biết đến như là văn bản do Bùi Huy Bích (1744-1818) biên soạn), bài viết này của chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử tư tưởng, tiến hành khảo sát, nghiên cứu về hiện tượng toản yếutiết yếu kinh điển Nho học trong bối cảnh tư học Việt Nam thế kỷ XVIII.” – "Toản yếu", "Tiết yếu" kinh điển và đặc trưng thuyên thích học Nho gia Việt Nam trong giáo dục Tư Học thế kỷ XVIII - Quách Thu Hiền (QTH)
**
Bài nghiên cứu dẫn trên đem đến sự thú vị do các trình thuật khúc chiết về một chủ đề hiểm trở là nền “cựu học” của nước Nam xưa,  nhưng còn mang lại một  cái nhìn đầy gợi ý về cái di sản đã bao lâu có vẻ như bất động kia, một thành tố trong lịch sử của tinh thần nước Nam: thành tố gọi là tinh thần Nho giáo.

Lịch sử của tinh thần không trùng khớp hay trùng lặp với cái được gọi như “lịch sử (của) tư tưởng”. Nhưng giống như diễn trình của nối tiếp, đồng thời, tranh đoạt và thống trị giữa các luận các thuyết,  diễn trình của tinh thần của một dân cư cũng “quần ngư tranh thực”  và tất nhiên có sự thống trị của một front chủ yếu; ở đây, tương ứng, là cái “front lạnh” Nho giáo phương Bắc, thành tạo một tinh thần thấm nhập vào dân cư các địa vực thuộc “Nam quốc sơn hà”, từ sự truyền bá Nho giáo của những Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp cho đến đường lối được coi là bảo trợ Nho mà kiềm chế Phật, Lão của vua Lê Thánh Tông.

Việc nghiên cứu về “hoạt động diễn giải kinh điển Nho học tại Việt Nam” (- QTH) bao hàm trong đó tìm hiểu và trần thuật cái tinh thần đã dẫn dắt sự diễn giải đó. Trong bài nghiên cứu này, phương diện ấy tự trình hiện qua “bối cảnh chính trị văn hoá xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII: từ bối cảnh bên ngoài (lộ trình của biên soạn kinh điển Nho học tại Việt Nam), bối cảnh bên trong (mối quan hệ giữa quyền lực và tri thức: những chính sách của nhà nước liên quan đến kinh điển Nho học), từ bối cảnh của chủ thể thuyên thích (người biên soạn kinh điển) và bối cảnh người tiếp nhận (Nho sinh, những người đi học)” (- QTH). Tất nhiên, do giới định cụ thể của nghiên cứu này, đấy có thể chỉ được thấy như một vài trong những chuyển động đa tạp của cái tinh thần chung; song, các chuyển động được thấy này lại thuộc về loại chuyển động lớn và căn bản.

Cụ thể thì, nghiên cứu này đã chọn một điểm tiếp cận đáng kinh ngạc và gây cảm hứng: là sự thể hai đối tượng nghiên cứu – hai sách “Toản yếu” và “Tiết yếu” này – bị  mấy lớp Nho gia về sau phê phán rất mạnh.

Thứ nhất, Tứ thư Ngũ kinh Tính lý Toản yếu và Tứ thư Ngũ kinh Tính lý Tiết yếu là hai công trình nhận được nhiều đánh giá tiêu cực từ các Nho gia Việt Nam trung cận đại. Phan Huy Chú (1782-1840) trong Lịch triều hiến chương loại chí 歴朝憲章類誌 nhận xét: “Tính lý Toản yếu 2 quyển, Tứ thư Ngũ kinh Toản yếu, 15 quyển, do Thám hoa Nguyễn Huy Oánh biên soạn. Vay mượn bản riêng của các danh gia, ghi chép chắt lọc các điều cốt yếu. Nhưng tựu trung cắt gọt, thay đổi rất nhiều thành ra xuyên tạc”. Nguyễn Thông (1827-1884), trong khi chấm thi Hương trường Thừa Thiên vào tháng 7 năm Tự Đức thứ 23, được biết Nho sinh chủ yếu học bộ sách Tiết yếu do Bùi Huy Bích biên soạn, vì thế đã dâng sớ lên án kịch liệt, cho rằng bộ Tiết yếu đại để trích những câu sáo ngữ giúp cho việc thi cử để lừa dối kẻ hậu sinh. Những người có tài, có trí bị chôn vùi  trong nền học ủy mỵ méo mó ấy mà không tự biết! Vì thế tôi ví với dị đoan tà thuyết, lừa đời dối dân, cũng không phải là quá đáng”. Đầu thế kỷ XX, trong một bài báo bàn về Nho học Khổng Mạnh, Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) cũng phê phán gay gắt bộ Tiết yếu “Sách kinh truyện và sử tiết yếu của Bùi Huy Bích là thứ sách gì? Cắt đầu, hớt đuôi, bôi son, vẽ lọ, không thành tư cách một cuốn sách, mà đem ra cho công chúng học, phô lên rằng học Khổng Mạnh thánh hiềnCái học vì sách tiết yếu của Bùi Huy Bích không khác gì ngọn lửa nhà Tần thứ hai trong học giới nước ta về khoản cận đại vậy” (- QTH)

Trước tiên, về thời độ, ta thấy sự phê phán đối với hai bộ sách diễn giải kinh điển Nho giáo trên đã trải suốt ít ra cả trăm năm, từ những năm 1800 đến các thập niên đầu 1900; và cũng rõ đấy là, ít ra gần đúng, quãng thời gian mà hai bộ sách ấy hẳn đã được khắc in bán mua và sử dụng một cách phổ biến, và đắc lực. Nhưng như bài nghiên cứu này nhận định thì “hoạt động diễn giảng kinh điển Nho học Việt Nam từ thế kỷ X cho đến nay là một hoạt động duy trì liên tục, không đứt gãy.” (-QTH) Hiện tượng diễn giải đó, như vậy là một hiện tượng lớn hơn, một diễn trình tiếp nhận bao trùm, mà hiện tượng phê phán của một thành tố này đối với các thành tố khác nào đấy của nó thì cũng vẫn ở bên trong cái hệ có thể gọi được như là một hệ sinh thái riêng của nó. Thời độ của tiếp nhận vẫn đang triển hạn. Và thời độ, của cả hai hiện tượng nói trên, giống với thời độ của mọi hiện tượng ý thức nói chung, không gì khác hơn, chính là phương diện căn bản của một tinh thần.

Cái tinh thần đó có khả thủ không? Đối với những gì xem thấy như là thực tại, hẳn đều không thể đơn giản bảo rằng có hay rằng không. Nhưng cái hiện tượng lớn đó, sự tiếp nhận Nho giáo, vào lúc mà hiện tượng phê phán nói trên hẳn đã khởi sự các nguồn cơn của nó, đã trình hiện những hậu quả khó coi: Sự suy đồi của khoa cử giáo dục Nho gia thế kỷ XVIII khiến cho đội ngũ quan lại (những người đỗ trong các kỳ thi) không đạt được những tiêu chí về phẩm hạnh và tài năng. “Những người trúng tuyển đại loại là kẻ không có thực tài”, “những kẻ ra ứng dụng cho đời phần nhiều là phường hủ lậu ít tài giỏi””(- QTH)

Hẳn chẳng phải đợi đến khi một nền giáo dục khác, hậu duệ trực tiếp ít ra bởi sự kế tục về lịch sử, lặp lại “sự suy đồi” ấy, thì mới thấy được rằng cái tinh thần Nho giáo đã thành tựu nét phong hóa dưới trời Nam sâu xa đến mức nào. Hơn nữa, sự lặp lại đó, thực hiện và hoạt tác dài lâu của cái tinh thần đó, còn hiện ra, với tính đồng bộ rõ rệt, trên mấy phương diện mang tính cơ cấu hay chức năng mà bài nghiên cứu này đã chỉ ra qua việc tìm hiểu về hiện tượng “Toản yếu, Tiết yếu”. Việc xuống cấp trong quản lý và giáo dục của Quốc tử giámcòn phản ánh rõ trong lời than thở của Bùi Huy Bích: “Trường Quốc tử giám là một chỗ lễ nghĩa thế mà học trò có người ngồi bên cạnh các quan, vung tay trật đùi, nói cười hềnh hệch không sợ gì cả”. Không chỉ riêng giáo dục Quốc tử giám, những ghi chép sử học thế kỷ XVIII còn cho thấy sự xuống cấp của toàn bộ hệ thống khoa cử trường công. Đặc biệt là ở các kỳ thi Hương, nhà nước cho phép thí sinh dùng tiền mua tư cách tham gia khoa cử, nhắm mắt làm ngơ trước tình trạng buôn bán bài thi mẫu, không ngăn cấm mang sách tham khảo vào trong trường thi, quan chấm thi “tuỳ theo văn bài mà chọn đỗ không kể gì trùng lắp ”. … Trong khi Quốc tử giám đánh mất vai trò giáo dục bậc cao thì tư học thế kỷ XVIII lại trở thành nơi đào tạo nhân tài thế kỷ XVIII. Tư học thế kỷ XVIII phát triển hoàn bị với hai mô hình giáo dục chính: thư viện gia tộc và học đường của các danh Nho.” (- QTH)

Nghiên cứu này của QTH nhấn mạnh sự trỗi dậy của “tư học” như là một đối thay về cơ chế giáo dục trong nền “cựu học” đó. Tuy nhiên, khi thấy ở đấy sự chuyển di cả một nhóm chức năng – việc lập trường (linh động về quy mô nhưng nhất thống về nguyên lý dạy và học), việc lập và phát triển các tàng thư, việc biên soạn (sẽ dẫn đến lưu hành và phân phối) các tài liệu giảng dạy – ta nên chăng nghĩ tới một sự biến đổi mang tính cấu trúc. Nhất là bởi, như nghiên cứu này đã trình bày rất thuyết phục, hiện tượng phát triển “tư học” đó gắn với “trào lưu ‘du học’ kinh đô” và dẫn sang sự hình thành các “liên minh sĩ tộc” và “liên minh thầy trò” (- QTH). Đấy đã là những thực tại đời sống-xã hội rất căn bản, mà nghiên cứu này cho thấy chúng trực tiếp ảnh hưởng vào quan trường, vào nền hành chính dân sự, vào hạ tầng tư tưởng-tinh thần, tạo ra thời buổi. Song, cái biến chuyển mang tính cấu trúc như thế hẳn đã không thể hoàn tất, hay ít ra đi theo hướng mà biến chuyển đó mở ra. “Tư học” với những “thư viện gia tộc”, “học đường của các danh Nho” là “xuất phát điểm” cho các trào lưu chấn hứng văn thể, chấn hưng Nho phong sĩ khí, và xu hướng tiếp nhận Thực học Minh Thanh thế kỷ XVIII. Trong khi Quốc tử giám lơi lỏng tiêu chí “nhân cách” trong xét tuyển Giám sinh thì tại nhiều học đường của các danh Nho, “nhân cách” được xem là tiêu chí hàng đầu trong việc thu nhận và dạy dỗ học trò.”. Cùng với sự xuống cấp của giáo dục trường công, kho sách giảng tập kinh điển của Quốc tử giám đã không còn giữ được ưu thế trước những tàng thư tư nhân. Nhà nghiên cứu Nguyễn Kim Sơn đã chỉ ra hiện tượng “sách chứa đầy nhà” của các sĩ tộc thế kỷ XVIII.Trong số đó những nhà sư phạm nổi tiếng thế kỷ XVIII cũng chính là những người sở hữu kinh điển đầy quyền lực. Phần lớn những người đỗ đầu trong kỳ thì Đình (Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp) thường được bổ nhiệm và kinh qua những vị trí liên quan đến quản lý và biên soạn thư tịch. Những chức trách ấy cho phép họ được tiếp xúc với một hệ thống thư tịch phong phú của nhà nước. Vì vậy, cùng với sự mở rộng của thương mại thư tịch Việt-Trung thế kỷ XVIII, cùng với sự trỗi dậy của tư khắc và phường khắc, nhiều danh sĩ đã tự mình thu thập, sưu tầm, sao chép, biên soạn chú giải và cho khắc in điển tịch tư gia. Nhiều bộ kinh điển lớn trước đây chỉ có thể thực hiện ở quy mô tổ chức khắc in nhà nước nhưng tại thế kỷ XVIII lại được thực hiện ở mức độ khắc in tư gia như bộ Toản yếu  của dòng họ Nguyễn Huy là một ví dụ điển hình. - QTH

Những biến chuyển như thế lại diễn tiến trong bối cảnh chung của “sự suy đồi của khoa cử giáo dục Nho gia” như ở trên đã dẫn. Liệu đó có phải một tình thế phản ứng lại một thực trạng – như cách các suy luận sử tính thường dẫn dắt hay không? Thêm nữa: Chính sách cấm mua sách Bắc thư của nhà nước năm 1736, theo chúng tôi, có thể đã gây ra đứt đoạn trong tiếp nhận kinh điển Nho học Minh Thanh thế kỷ XVIII.Trong sự khan hiếm của thị trường sách khoa cử, Toản yếu Tiết yếu trở thành những bộ sách Tứ thư Ngũ kinh Chế cử đáp ứng được nhu cầu của sĩ tử đương thời: một bộ điển tịch đầy đủ chính xác kinh văn, chú giải theo hệ tư tưởng Trình Chu, đã được tinh lọc, không rườm rà phồn tạp. Trong đó Toản yếu còn là sự tinh lọc từ 10 độc bản của danh gia Việt Nam và có sự tiếp nhận khảo chứng học đời Thanh (qua sự tiếp nhận Khốn học kỷ văn của Vương Ứng Lân- một tác phẩm khảo cứu có nhiều ảnh hưởng đến các nhà khảo chứng học đời Thanh như Cố Viêm Võ, Diêm Nhược Cừ…), hoàn toàn có thể được xem là một bộ sách giáo khoa hoàn bị cho người đi học thế kỷ XVIII.” – QTH

Như vậy, sự phát triển một khu vực giáo dục mang tính kinh điển-chính thống do tư nhân đảm trách không phải là phản ứng đối với sự suy đồi của chính nền giáo dục đó trên nền tảng quan phương vốn có của nó. Sự phát triển “tư học” ấy, có vẻ phác ra một biến chuyển sang một ý thức phân lập được sở hữu tư nhân về trí tuệ, phát triển những thiết chế văn hóa tự trị cao cấp; nhưng nó đã lập tức rơi lại vào quỹ đạo của tinh thần tuân thủ Nho giáo – chỉ là một nhánh đường thoát hiểm, rõ ràng nhằm cứu vãn cái cấu trúc lý tưởng “thiên mệnh”- “hiền tài” lấy “nhân trị” làm trụ cột.

Và như thế sự phê phán đối với hai sách “Toản yếu” và “Tiết yếu” mà nghiên cứu này chọn làm điểm tiếp cận mới là phản ứng đối với cái nạn “suy đồi” kia. Những lời phê phán rất nặng, như đã dẫn ở trên, là “xuyên tạc”, “lừa đời dối dân”, “dị đoan tà thuyết”, “ngọn lửa nhà Tần thứ hai”, rất có vẻ chỉ cần dấn thêm một bước nữa sẽ trở nên những phủ định đột phá. Nhưng thực tế sự phủ định ấy đã diễn ra theo cách khác mà ai cũng đã biết. Cả hai chuyển động lớn, chỉnh đốn tự phát sự học và phê phán sự suy đồi của khoa cử, thảy đều diễn biến trong tinh thần tuân thủ hệ giá trị Nho giáo, nhân danh hệ giá trị đó.  Cái tinh thần tuân thủ này, chỉ còn gắn với Nho giáo một cách lỏng lẻo linh động, dẫu chẳng bao giờ thuần nhất, luôn dẫn đến sự sùng bái và độc tôn cái gì đấy được nó hợp thức hóa như là cái chính thống. Nó là một “đại tự sự” dai dẳng và sẵn sàng áp chế. Mặt khác thì do cái tinh thần Nho giáo ấy ngay từ đầu đã dấn thân vào chính trị, nó luôn luôn được dùng làm một lợi khí trong chính trị chuyên chế.

Về sau này, cũng chỉ trong vòng trăm năm, có những thực tại tương đương với hai vận động nói trên lặp lại: cảnh lan tràn “dạy thêm-học thêm” và những “lò” luyện thi với những thầy nổi tiếng; những căn nhà của giáo viên kiêm thêm chức năng lớp học bán trú; lạm phát những “bài văn mẫu”, “sách tham khảo”, v.v. ; rồi đến sự xuất hiện đầu tư tư nhân vào việc lập trường dạy học. Nguyên lý có tính tiên đề học để ra làm quan – cái nguyên lý ấy chẳng hề suy suyển; nhất là trong một tương quan bền vững suốt hàng chục năm coi những trường huấn nghệ chỉ là những trường hạng hai ở bậc học sau phổ thông.

Vậy là cái nền giáo dục “mực tàu chữ nho” đã tan rã từ hai trăm năm trước nhưng cái tinh thần mà nó hun đúc thì đi vào phong hóa dân gian và, qua nhiều thế hệ những tầng lớp tinh hoa và thống trị xã hội đều hưởng lợi và trục lợi từ hệ giá trị Nho giáo đã bản địa hóa, nó đi vào các định chế hiện đại.
Liệu có phải, như người ta nói, tinh thần Nho giáo trong thực tế đã sai lệch hẳn khỏi cái đạo lý mà những nhà kinh điển của nó từng kiến lập? Và liệu có phải việc nghiên cứu về tiếp nhận kinh điển Nho giáo sẽ giúp điều chỉnh cái tinh thần ấy?
NGUYỄN CHÍ HOAN   

Thursday, September 26, 2019

Trung thành với bản tâm

Vấn đề của tôi, rất rõ ràng, trong khi bị/được lôi kéo bởi các cơn phấn khích (viết/đọc) tôi hay sực tỉnh giữa chừng và phản tỉnh: mình đang làm cái trò con bò gì thế? Tư duy bị ngắt đột ngột như một cơn chuột rút. Rất lâu sau đó tôi mới viết tiếp được. 

Tôi cũng là người thường dừng lại giữa chừng khi tôi cảm thấy mình không hiểu hết một vấn đề nào đó. Theo quan sát của tôi, thường những người khác, họ cắm một cột mốc ở đó, đi tiếp cho hết chặng rồi sẽ quành lại để giải quyết câu hỏi còn đang dang dở. Nhưng tôi thì không thể. Nếu tôi mắc ở đâu, tôi sẽ quanh quẩn nguyên ở đó, đào xới, lật tung, mở rộng phạm vi tìm kiếm, một năm, hai năm, thậm chí lâu hơn, chỉ để hiểu hết một vấn đề. Khi tôi cảm thấy thoả mãn với câu trả lời mình tìm ra được, tôi mới đi tiếp. 

Trong việc "viết", đối với tôi, không phải khi kết thúc bài viết, mà chính quá trình "đọc" mới là thú vị và đáng hưởng thụ nhất. Khi bài viết kết thúc, đó là sự trống rỗng. 

Trung thành với bản tâm là điều khó nhất. Rất ít người làm được. Nhưng ít ra nên làm được điều này: nếu đã lựa chọn làm thì phải chấp nhận hệ/hậu quả của việc mình đã làm.  

Hôm nay, tôi nói với thằng bạn cà phê rằng không có địa ngục nào kinh khủng bằng địa ngục bên trong con người. Vượt qua được địa ngục đó chính là giải thoát. 

Ngay cả với người bản thân xem là đáng quý trọng nhất mà không thể thành thực, thì còn có thể thành thực với ai ở trên cõi đời này? 

Friday, May 3, 2019

Dũng sĩ và phù thuỷ



- Đọc "Cửa tùng đôi cánh gài" chưa?
- Chuyện dũng sĩ cứ khăng khăng đi giết quái vật, trừ gian diệt ác giúp đỡ cho đời nhưng cuối cùng khi trở về soi vào kính chiếu yêu lại thấy chính mình là quái vật. Em đọc rồi, hồi lâu lâu gửi link  "bắt đọc" còn gì.
- Cho nên có khi cứ ngồi bên cửa sổ là cách tốt nhất. Chỉ cần say mê trong sách vở là được rồi.
-  Em cứ say mê thuần khiết trong sách vở, thế rồi một hôm em nhìn vào gương và thấy một mụ phù thuỷ già thì sao?
- ..........!!!!!


Friday, April 19, 2019

Ký sự Sài Gòn (2): Nhói tim cho Cái Đẹp

Cho bù tọt

Tôi còn nhớ rất rõ, Sài Gòn đêm đó nóng đến ngạt thở. Khi người đàn ông ấy, trong vòng vây của rất nhiều người, lướt qua trước mặt tôi, trái tim tôi đã nhói lên một cái. Tôi biết, tôi vừa nhìn thấy một Cái Đẹp lướt qua trước mặt mình, một Cái Đẹp mà có thể sau này tôi sẽ không bao giờ có cơ hội chứng kiến lại được nữa...

Hai chục năm về trước tôi cũng đã từng nhói tim một lần như thế. Nhưng hai chục năm trước tôi là một cô bé tò mò với cả thế giới, cái gì tôi cũng muốn biết. ("Và vì thế em sẽ sống rất lâu", như lời của một nhà phê bình văn học người Hà Nội gốc đã nhận xét về tôi. Bọn giai Hà Nội gốc lúc nào cũng thâm sâu đáng sợ). Hai chục năm trước tôi không biết rằng khi bắt đầu tò mò về ai đó nghĩa là tôi đã bước vào câu chuyện của người khác, cú thò chân đó có thể sẽ khiến tôi vạn kiếp bất phục. Bây giờ tôi cũng vẫn còn muốn biết rất nhiều thứ, chỉ là không còn tò mò. Vì vậy cái nhói tim trong buổi tối Sài Gòn nóng ngốt người hôm đó chỉ diễn ra trong một tích tắc rồi thôi. Lúc đó tôi còn đương bận lo, tan hát chầu rồi liệu có bắt được Grab giờ này (12h đêm) để về khách sạn?

Nhưng có những thứ thực ra đã âm thầm khởi đầu từ lâu lắm rồi chỉ là tôi không nhận thấy. Vì vậy tôi đã quay trở lại Sài Gòn trong những ngày nóng nhất của tháng Tư để tiến hành một dự án khác xa các lĩnh vực nghiên cứu từ trước đến nay của tôi. 

Tôi đã không ngờ có một ngày tôi lại nặng lòng với Sài Gòn đến thế.

Mọi thứ bắt đầu từ một cú nhói tim cho Cái Đẹp.