Wednesday, February 23, 2011

Mèo hay Thỏ?

Cuộc tranh cãi Mèo và Thỏ đến giờ vẫn chưa thấy hồi kết vì thế  tôi xin được chia sẻ thêm tư liệu cho các bác nào quan tâm nghiên cứu về 12 con giáp có cơ sở tranh luận tiếp :)). Tuy nhiên tôi hơi buồn (thở dài- dạo này hay thở dài quá), vì thấy mỗi khi tranh cãi không nổi trước các chứng cứ khoa học thì các bác (lấy nền văn hóa Việt làm trung tâm) lập tức gán ngay cho đối phương (những bác cho rằng nguồn gốc 12 con giáp là có từ nền văn hóa Hán) cái tội Hán gian. Tôi chợt nghĩ đến Cố Hiệt Cương khi ông ấy kết luận Hạ Vũ vốn chỉ là một loài bò sát đúc trên cửu đỉnh  (sau đó dẫn đến một loạt các nhân vật tương tự như Hoàng Đế, Thần Nông, đế Nghiêu, đế Thuấn cũng được cho chỉ là một loài trùng), không biết ông ấy có bị những người có quan niệm đối lập gán cho cái tội báng bổ Thánh nhân? Tôi cũng nghĩ đến Quách Mạt Nhược khi ông cho rằng 12 địa chi của người Trung Quốc là kế thừa từ 12 cung hoàng đạo của Babilon, không biết ông ấy có bị gán cho tội “Tây gian”? Tôi cũng nghĩ đến Diệp Thư Hiến khi ông ấy kết luận chuyện mặt trăng, cóc và thỏ vốn mang tính xuyên văn hóa chứ không thuộc bản quyền của một nền văn hóa nào hết, không biết ông ấy có bị gán cho cái tội “gian” nào đấy?. Tôi cũng nhận thấy, trong các cuộc tranh luận gần đây (như cuộc tranh luận này) sau khi cùng kiệt về lập luận và chứng cứ thì người yếu thế thường lái cuộc tranh luận sang hướng khác (như bài Hoa chẳng hạn-một chủ đề đang ăn khách) để làm lạc hướng vấn đề.

Tôi không quan tâm đến chuyện 12 con giáp. Những gì tôi lược thuật dưới đây không phải là quan điểm của tôi mà là những thông tin tôi vô tình tiếp nhận được khi đọc cuốn Trung Quốc cổ đại thần bí số tự của Diệp Thư Hiến (tôi quan tâm đến quan niệm của thời cổ về con số 4). Trong chương viết về con số 12, ông có những ghi chép khái quát về “12 sinh tiêu và 12 thần thú”, tuy không trực tiếp bàn về chuyện tại sao là Mèo, tại sao là Thỏ, nhưng tôi thấy dựa vào những thông tin tổng hợp của Diệp Thư Hiến chúng ta ngõ hầu cũng có thể lần ra được vài dấu vết nào đó…

1. Tài liệu sớm nhất ghi chép đầy đủ về 12 con giáp: “Tần giản” (sách thẻ tre đời Tần)

Bản thân người Trung Quốc cũng không rõ về lịch trình phát triển hình thành 12 con giáp (họ gọi là: 12 sinh tiêu, 12 thuộc tướng).  Thí dụ Triệu Dực[i] trong cuốn Cai Dư tùng khảo đã nói rõ:

[12 thuộc tướng bắt đầu từ thời nào các sách đều không ghi chép. Dưới cụm “phong Mão địa” trong mục Mao Dĩnh truyện sách Hàn Văn khảo dị có chú rằng: 12 con vật không biết xuất hiện từ chỗ nào, còn nữa, Chu Tử (Chu Hy) từng hỏi Sái Quý Thông: 12 thuộc tướng bắt đầu từ bao giờ, xuất hiện đầu tiên trong sách nào? Quý Thông cũng không cách nào trả lời được!]

Ghi chép sớm nhất về “sinh tiêu” được người Trung Quốc cho là đã xuất hiện  “lẻ tẻ” trong Kinh Thi, thí dụ như trong bài Cát nhật phần Tiểu nhã có câu: “Cát nhật Canh Ngọ, ký ta ngã mã”… Trước đây họ nhất trí với nhau ở một điểm: những ghi chép hoàn chỉnh  đầy đủ nhất về  12 con giáp xuất hiện đầu tiên trong sách Luận hành của Vương Sung (thực ra là 11 sinh tiêu được chép trong “Vật thế thiên”, khuyết mất “Thìn”. Nhưng trong thiên “Ngôn độc” cùng sách đó lại bổ sung thêm như sau: “Thìn là rồng, Tỵ là rắn. Vị trí của Thìn và Tỵ là ở Đông Nam”. Như thế cũng xem như sách Luận hành đã chép đầy đủ về 12 con giáp). 12 con giáp được ghi chép trong sách Luận hành chính là diện mạo 12 con giáp hiện tại ở Trung Quốc.

Tuy nhiên vào năm 1975, phát hiện khảo cổ học về bộ thẻ tre đời Tần (Tần giản)  tại đất Thụy Hổ huyện Vân Mộng tỉnh Hà Bắc đã khiến cho các nhà nghiên cứu về 12 con giáp phải nhìn nhận lại mọi vấn đề.. Trong bộ Tần giản có một mục gọi là “Đạo giả” đã ghi chép đầy đủ về 12 con giáp, trong đó ngoại trừ “Thìn” lược giản con giáp thì 11 con giáp còn lại được ghi chép như sau:

[“Tí, thử giả. Sửu, ngưu giã. Dần, hổ giã. Mão, thố giã. Thìn. Tị, trùng dã. Ngưu, lộc giã. Mùi, mã dã. Thân, hoàn giã. Dậu, thủy giã. Tuất, lão dương giã. Hợi, thỉ dã” (Tí là Chuột. Sửu là Bò. Dần là Hổ. Mão là Thỏ. Thìn. Tỵ là Trùng. Ngọ là Lộc. Mùi là Ngựa. Thân là Hoàn. Dậu là Thủy. Tuất là Dê. Hợi là Lợn )]

Như vậy là với bộ “Tần giản” niên đại ghi chép về 12 con giáp được đẩy sớm lên hơn 300 năm. Nếu so sánh những ghi chép trong Tần giản với Luận hành của Vương Sung thì thấy rằng: có sự nhất trí về số lượng con giáp, nhưng có chút khác biệt. Trong Tần giản,  “Tý thử, Sửu ngưu, Dần hổ, Mão Thố, Hợi Thỉ” là giống với Luận hành. Có 3 mục khác với Luận hành là “Ngọ lộc, Mùi mã,  Tuất dương”. Ba mục còn lại “Tị, trùng dã. Thân, hoàn giã. Dậu, thủy giã”, thì theo khảo cứu của Vu Hào Lượng tiên sinh cơ bản tương đồng với Luận hành.

Lập luận của Vu Hào Lượng tiên sinh như sau:

[“Tỵ, trùng 蟲 dã. Trong “Thuyết văn” mục “trùng bộ”, dưới chữ trùng có chú rằng: thời cổ, trùng 虫 và trùng   không phân biệt. Dưới chữ trùng   thì lại chú: “trùng 虫  là tên một loài phúc   (rắn độc)”. Như thế, Tỵ trùng dã, thực tế cũng như “Tỵ” là Rắn vậy.

“Thân, hoàn  dã. Hoàn 环 đọc là  . Thời cổ chữ biểu thanh   thường dùng thông với nhau. Câu “Tề hầu hoàn   tốt”  trong “Tả truyện - Tương công thập cửu niên” được chép trong “Công Dương truyện-Tương công thập cửu niên” là: Tề hầu hoàn  tốtcó giải thích rằng: còn có một âm khác là ”. Hay trong “Hán thư-Ngũ hành chí” dưới câu “Vị cung môn đồng hoàn 铜 锾”, có chú: “ cũng đọc giống như .”. Vì thế “hoàn” 环 cũng có thể đọc là  . Chữ cũng tức là chữ  猿  (con vượn), như thế cũng khác nào nói “Thân thuộc tướng Khỉ”.
           
Dậu, thủy 水 giã.  đọc là  . với  đều thuộc vận bộ Chi. Thủy thuộc thanh mẫu “thẩm” , tam đẳng. Trĩ thuộc thanh mẫu “trừng”  澄 , tam đẳng.  Mà chữ biểu thanh “thỉ”  矢  trong chữ “trĩ” cũng thuộc thanh mẫu “thẩm”  審, tam đẳng. Thủy và Trĩ có âm đọc gần giống nhau nên Thủy cũng có thể đọc là Trĩ  (một loài dẽ ăn thóc lúa) ….]

Còn tại sao từ “Ngọ lộc, Mùi mã, Tuất dương” lại thành ra “Ngọ mã, mùi dương, tuất  khuyển” thì trong cuốn Trung Quốc sinh tiêu văn hóa cho rằng, 12 sinh tiêu trên “Tần giản” có trước, sau đó trong quá trình lưu truyền, 12 sinh tiêu trên Tần giản đã được các nhà  số thuật dùng thuyết âm dương dựa vào tính kỳ ngẫu trong bộ móng của các con vật mà giải thích lại đưa mã, dương, khuyển vào thay thế cho lộc, mã, dương, truyền đến thời Vương Sung thì được ông ghi chép và phổ biến rộng rãi. Đó chính là hệ thống 12 con giáp ngày nay ở Trung Quốc.

2. Quách Mạt Nhược: 12 con giáp không phải do người Trung Quốc nghĩ ra

Mặc dù những ghi chép về 12 con giáp đã xuất hiện trong văn hiến cổ của Trung Quốc từ rất sớm nhưng điều đó không đại biểu rằng người Trung Quốc là người nghĩ ra hệ thống 12 con giáp. Nhiều học giả cho rằng, để khẳng định chính tộc Hoa Hạ tạo nên 12 sinh tiêu thì cần phải có chứng cứ thuyết phục hơn nữa. Quách Mạt Nhược chính là người kiên định quan điểm đó. Ông căn cứ vào tình hình các nước đều có văn minh lịch 12  con thú, cho rằng 12 con giáp không chỉ giới hạn ở phương Đông mà Ấn Độ, Babilon, Hy Lạp, Ai Cập đều có. Hơn nữa dựa vào niên đại những tài liệu ghi chép về 12 con giáp ở Trung Quốc, ông cho rằng niên đại xuất hiện 12 con giáp ở Trung Quốc xuất hiện muộn và có thể người Trung Quốc thời Hán đã phỏng theo 12 cung hoàng đạo của người Babilon mà chế ra 12 con giáp.

Tuy nhiên, những người theo quan điểm “12 sinh tiêu có nguồn gốc từ Hoa Hạ” không đồng ý, họ cho rằng 12 sinh tiêu là kết quả dung hợp giữa kỷ niên can chi của tộc Hoa Hạ cổ với kỷ niên lịch thú trong các dân tộc thiểu số như Di tộc, Tạng tộc. Diệp Thư Hiến thì cho rằng quan niệm dung hợp trên tuy rất hay nhưng không đủ chứng cứ thuyết phục.

3. Từ phương diện nghiên cứu ngôn ngữ học: Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn: Tuy ai cũng biết rằng hệ thống tên gọi 12 năm là một hệ thống đã được ghi bằng chữ Hán từ rất lâu đời nhưng tên gọi 12 năm đó chắc phải từ một ngôn ngữ nào khác chứ không phải là tiếng Hán….

Trong bài viết Về tên gọi con rồng của người Việt (đăng trên Diễn đàn số 94, sau đó được in lại trong cuốn Một số chứng tích về văn tự và văn hóa, NXB Đại học Quốc gia, 2001 tr.20-29), mục III “Về quan hệ giữa rồng và năm Thìn”, Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn có thận trọng lý giải mối quan hệ Thìn-Rồng từ góc độ ngôn ngữ học. Tôi tìm trên mạng không thấy bài viết này của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn nên tôi (vốn lười biếng) chỉ đánh máy lại đoạn quan trọng nhất trong bài đó ở dưới đây: (Đánh theo đúng nguyên văn bài viết)

“2. Thời thượng cổ, khi người Hán đóng khung ở lưu vực sông Hoàng, sông Vị thì toàn bộ miền Hoa Nam rộng lớn lại là địa bàn cư trú của rất nhiều bộ lạc khác, nói những ngôn ngữ thuộc nhiều dòng họ khác. Giới ngữ học quốc tế hiện đang cố gắng tìm nguồn gốc tên gọi 12 năm ở những ngữ hệ này: người thì tìm ở họ Austro-Thái như P.K.Benedict, người thì tìm ở họ Nam Á (Austro-Asiatique), như J.Norman và T.L.Mei. Họ Nam Á là ngữ hệ lớn bao gồm nhiều tiểu chi, trong đó có tiểu chi Việt-Chứt với nhóm Việt Mường của chúng ta. Chúng tôi hiện cũng đang cố gắng đi theo hướng Nam Á để xem thử kết quả như thế nào: ví dụ đang cố gắng tìm thử xem HỢI có gần với CÚI, SỬU có gần với TRÂU, NGỌ có gần với NGỰA hay không? Riêng năm MÃO chưa nhất trí ứng với một con nào: nơi thì cho là con THỎ, nơi thì cho là con MÈO. Phải chăng quan hệ MÃO-MÈO là hợp lý hơn? Tất nhiên phải hết sức thận trọng trong suy luận, phải hết sức nghiêm ngặt trong phương pháp, tên năm, tên con vật đều phải phục nguyên dạng thượng cổ mới đem ra so sánh được.

3. Với tinh thần như trên, chúng ta thử đi vào mối quan hệ giữa THÌN với RỒNG. THÌN thuộc vận bộ CHÂN, thanh mẫu THIỀN. Trong Hán ngữ sử cảo, giáo sư Vương Lực cho biết rằng thời Kinh Thi, Thiền đang là một âm /z/ mặt lưỡi trước (tạm ghi là /z’/ và Chân đang là vần /en/, nghĩa là Thìn phải được phục nguyên thành /z’en/. Rõ ràng là quá xa với /rông/ của cùng thời ấy. THÌN đúng là không bắt nguồn từ tên gọi con rồng của người Hán. Nhưng nếu đem so sánh với tên gọi con rồng /mahing/ của người Thà Vựng thì như thế nào? Trên đây (đoạn đầu bài viết này mà tôi không đánh lại-QH chú thích) chúng ta đã ngờ rằng /mahing/ ứng với tên rắn /mơsinh/ mà dạng phục cổ được phục nguyên là /psănh/. Trong quá trình so sánh /z’en/ với /psăng/, thú thực chúng tôi cảm thấy có phần lưỡng lự hoang mang. Khi thấy có sự  cấu âm quá gần gũi giữa /z’/ và /s/, giữa /-n/ và /-nh/ và phần nào giữa /ă/ và /e/ chúng tôi rất muốn nêu lên ngay một giả thuyết , chủ trương có sự tương ứng. Nhưng khi nghĩ đến  những hệ quả quá bất ngờ của một giả thuyết như vậy, chúng tôi lại sinh ra hơi lo lắng, sợ sai lầm: sai lầm ở khâu phục nguyên /z’en/, ở khâu phục nguyên /psănh/ hoặc sai lầm ngay chính ở khâu nêu lên sự tương ứng.  Không lo sợ sao được!  Cho /z’en/ ứng với /psănh/ thì hóa ra kết luận rằng THÌN  là một tên gọi loài RỒNG-RẮN, RỒNG là một tên gọi gốc từ Proto Việt-Chứt, và cư dân Proto Việt-Chứt hóa ra lại là một trong những tác giả đã tham gia góp phần vào việc hình thành nên hệ thống tên gọi  12 năm! Cứ liệu thật hấp dẫn, nhưng rõ ràng là cần phải thận trọng, cần phải tiếp tục tìm tòi nhiều hơn nữa.]…



Bác nào quan tâm có thể download những cuốn sách nghiên cứu về con giáp ở những link dưới đây:


  1. Diệp Thư Hiến, Điền Đại Hiến, Trung Quốc cổ đại thần bí số tự.
  2. Ngô Dụ Thành, Trung Quốc sinh tiêu văn hóa
  3. Ân Vĩ, Văn hóa sinh tiêu.
  4. Trung Quốc thập nhị sinh tiêu ấn phổ



[i] Triệu Dực (1727-1814), một nhà văn, nhà sử học nổi tiếng đầu đời Thanh. Ông đậu tiến sĩ đời vua Càn Long thứ 26. Ông là tác giả cuốn: Chấp nhị sử trát ký . Cuốn này cùng với Thập thất sử thương các của Vương Minh Thịnh và  Nhị thập nhị sử khảo dị của  Tiền Đại Hân được xem là 3 tác phẩm sử học nổi tiếng. (Cảm ơn anh Phạm Hoàng Quân đã chỉ ra lỗi sai trong phần thông tin về Triệu Dực. Em đã kiểm tra lại và đã đính chính  :D ) 

12 comments:

  1. Đang giai đoạn nhạy cảm mà, đấy là chỗ này còn có chứng cớ khoa học nhé, chứ còn những khoảng hư cấu ấy, còn cãi nhau ỏm tỏi nữa. Sao lại dám hư cấu bọn tướng Tàu tài hoa đa tình tinh tế đến thế, nịnh bợ Bắc quốc hả? Mời bà con đọc lại vụ Hội thề của Nguyễn Quang Thân mà xem.
    Nhân tiện nhờ chủ nhà giải đáp luôn: từ bao giờ và từ đâu mà dân ta coi số 4 là số Tử,(nhất là biển số xe máy ô tô) vậy, quan niệm ấy bất hợp lý đến mức độ nào?

    ReplyDelete
  2. Nguyễn Cung ThôngFebruary 23, 2011 at 6:09 PM

    Bạn Quách Hiền kính,

    Tình cờ xem qua bài viết nhỏ ở trên, xin có vài ý kiến về Mão Mẹo là mèo hay thỏ ... Để hiểu tại sao người Việt lại dùng mèo cho chi Mão 卯, một cách giải thích thường gặp trong tài liệu TQ là âm Mão khi nhập vào tiếng Việt đọc giống như mèo hay miêu HV nên người Việt dùng mèo làm biểu tượng thay vì thỏ. Điều này không hợp lý vì các lý do sau



    3.1 Mèo là แมว maew (tiếng Thái), maaw (Lào) ... nhưng thỏ lại là loài vật biểu tượng cho chi Mão ở Thái, Lào! Điều lầm lẫn giữa Mão và mèo lại càng rất khó xẩy ra khi đất Giao Chỉ có những liên hệ rất gần với các triều đại phương Bắc (Hán ... Đường) so với các dân tộc khác ở phía tây Giao Chỉ.



    3.2 Nếu mèo đọc gần như Mão và được dùng làm loài vật tượng trưng cho chi thứ tư này, rất khó giải thích tại sao nga (ngỗng trời ... cò biển) gần gũi với dân ta (đánh cá, gần biển ...), đọc gần giống âm cổ *ngwa của Ngọ 午, lại không là loài vật biểu tượng cho chi Ngọ? Còn âm cổ Mùi (Vị) 未 của chi thứ tám đọc gần với âm muỗi, tại sao người Việt lại dùng dê chứ không là muỗi ... và còn nhiều các âm giống khác nữa ....v.v... Ngoài ra, tuy chữ Nôm còn quá ‘trẻ’ để phân tích liên hệ ngữ âm của tên gọi 12 con giáp, nhưng cũng có vài điểm đáng chú ý là mèo (cũng như meo) thường dùng chữ miêu 貓 HV như



    'Lẻo lẻo doành xanh con mắt mèo' (Bạch Vân Thi Tập, Nguyễn Bỉnh Khiêm 1491-1585)

    3.3 Khuynh hướng tổng quát và tự nhiên của chữ viết loài người tiến hoá từ cụ thể và đơn giản đến trừu tượng. Thí dụ như tên gọi các loài vật được dùng với nghĩa mở rộng hơn, trừu tượng hơn như mặt chuột (so với mặt rồng), thân trâu ngựa, ăn như mèo ngửi, tính tình như rắn rít ... Thành ra, suy luận từ âm Mão cho ra mèo thì không phù hợp với khuynh hướng tự nhiên; Đáng lẽ là từ mèo (loài vật, cụ thể) cho ra âm Mão (hệ thống ghi thời gian, trừu tượng, bói toán/số mệnh) mới hợp lý hơn. Hệ thống gọi tên các con vật cụ thể (đơn giản) và rất gần gũi với nhà nông khi nhập vào văn hoá Hán đã trở thành hệ thống ghi nhận thời gian, bói toán (trừu tượng, phức tạp); Hệ thống 12 con giáp này cùng khởi sắc khi văn hoá Hán phát triển cực mạnh (Tần, Hán ... Đường, Tống ...) và ảnh hưởng đến các khu vực chung quanh, đây lại là hiện tượng nhập ngược mà ít người ý thức được trong trường hợp Việt Nam.

    3.4 Mèo hay *meu là âm thượng cổ so với Mão là âm trung cổ (莫飽切 mạc bão thiết, Quảng Vận) - chiều biến âm là mèo cho ra mão chứ không phải ngược lại! Liên hệ lịch đại giữa nguyên âm e và a còn rõ nét trong tiếng Việt và Hán Việt: hè hạ, xe xa, chè trà, vẽ hoạ, keo giao, mè (vừng) ma, beo báo ... Thử xem một tự điển phổ thông trên mạng cũng thấy điều này phần nào http://tool.httpcn.com/Html/zi/22/PWCQKOUYRNUYKOTBF.shtml

    [ 上古音 ]:幽部明母,meu - compare this form to me`o (cat in Vietnamese)

    [ 广 韵 ]:莫飽切,上31巧,mǎo - of Ma~o ,效開二上肴明

    [ 平水韵 ]:上声十八巧

    [ 国 语 ]:mǎo

    [ 粤 语 ]:maau5

    [ 闽南语 ]:bau2


    Vài hàng thân gởi và chúc bạn QH cùng các bạn đọc một năm con mèo an khang thịnh vượng. Có tất cả 24 bài viết về "Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp" từ các góc độ khác nhau, xem chi tiết trên các trang http://www.khoahoc.net/baivo/nguyencungthong/060111-muoihaicongiap-mao.htm

    Nguyễn Cung Thông

    ReplyDelete
  3. Nguyễn Cung ThôngFebruary 23, 2011 at 6:38 PM

    Bạn Quách Hiền kính,

    Từ những góc độ nhìn khác nhau như trên, ta thấy khả năng nguồn gốc tên gọi 12 con giáp có thể đến từ tiếng Việt cổ. Thật ra thì người Việt chúng ta không cần phải lý giải tương quan rất tự nhiên giữa Mão Mẹo và mèo, cũng như Tý chút *chuốt chuột, Ngọ ngựa, Hợi *Gỏi cúi (heo), Sửu *tlu trâu ... Người Việt không phải dùng các từ ghép so với văn hoá TQ như Mão Thố 卯兔 , Tý Thử 子鼠, Sửu Ngưu 丑 牛để giúp ta nhớ đến tương quan Mão mèo, Tý chuột, Sửu tlu/trâu ..... Chính các ngôn ngữ hay dân tộc nào dùng thỏ thay vì mèo cho chi Mão/ Mẹo mới cần phải giải thích sự khác biệt này: đây là sự vay mượn hay cố tình thay đổi?

    Vài hàng rất vắn tắt cùng đóng góp vào chủ đề 12 con giáp - Mão Mẹo mèo

    Nguyễn Cung Thông

    Xem thêm 3 (ba) bài viết về "Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp - Mão Mẹo mèo" trang này http://www.khoahoc.net/baivo/nguyencungthong/060111-muoihaicongiap-mao.htm

    ReplyDelete
  4. @Bác Ano (thứ lỗi, vì bác để chế độ vô danh nên tôi đành gọi như thế): Tôi chưa đọc "Hội thề" của Nguyễn Quang Thân nên tôi sẽ không bàn luận gì về xung quanh cuốn tiểu thuyết này.

    Riêng về trường hợp con số 4, tôi thấy vấn đề bác đặt ra rất thú vị. Thư thư nếu có thời gian tôi sẽ trình bày về trường hợp con số 4 này trong bài post tiếp theo đây. Hy vọng có thể trả lời được câu hỏi của bác.

    ReplyDelete
  5. @Bác Nguyễn Cung Thông: Cảm ơn bác đã chia sẻ các quan điểm. Tuy tôi không phải là một người nghiên cứu chuyên sâu về ngôn ngữ học, càng không phải là người quan tâm đến vấn đề 12 con giáp nhưng tôi có vài điều muốn trao đổi lại với bác, mong bác chỉ giáo.

    Thứ nhất: Trước hết chúng ta nên có sự nhất trí với nhau là "tiếng Việt để gọi 12 con giáp" là tiếng Việt giai đoạn nào?

    Thứ hai, việc đặt vấn đề tiếng Việt ở giai đoạn nào để phục vụ cho việc phục nguyên ngôn ngữ dạng thượng cổ. Thí dụ như trong trường hợp Mão-Mèo, muốn chứng minh mối quan hệ của nó theo tôi chúng ta phải làm 2 công việc phục nguyên như sau.

    Bước thứ nhất: Phục nguyên dạng thượng cổ của "Mão".

    Bước thứ hai: Phục nguyên dạng thượng cổ của "Mèo" trong các khu vực ngôn ngữ của tiều chi Proto Việt-Chứt (ngôn ngữ mẹ của tiếng Việt), thí dụ như:

    - Tên gọi mèo ở Việt Mường
    - Tên gọi mèo ở Thà Vựng
    - Tên gọi mèo ở Poọng
    - Tên gọi mèo ở Phon Soung
    - Tên gọi mèo ở Khạ Phọng...

    Từ đó chúng ta mới có thể kết luận và so sánh xem chúng có thể tiếp cận nhau hay không...

    Thứ ba, chúng ta cũng nên lưu ý đến quan niệm: 12 con giáp ra đời gắn liền với giai đoạn sùng bái tôtem, và sự thay đổi con vật trong 12 con giáp chính là sự thay đổi đối tượng của sùng bái tôtem trong quá trình phân hóa tổ hợp hoặc di dời bầy đàn của các thị tộc.

    Trên kia có một gợi ý sẵn có, trên "Tần giản" 12 con giáp có rất nhiều chỗ khác với 12 con giáp trong "Luận hành" của Vương Sung. Vậy trước "Tần giản" 12 con giáp biết đâu còn khác thế nữa, chúng ta không thể nào biết được...

    Người Trung Quốc họ có rất nhiều chứng cứ để nhận 12 con giáp là của họ thí dụ như: họ có lịch 12 con thú ở các dân tộc thiểu số, họ có các câu chuyện dân gian về chọn sinh tiêu, họ có nghi lễ trừ tà với 12 thần thú (tương tự 12 con giáp)...vân vân và vân vân...

    Ở Việt Nam chúng ta có gì? Điều đó cũng rất quan trọng....

    ReplyDelete
  6. Nguyễn Cung ThôngFebruary 24, 2011 at 5:25 AM

    Bác Quách Hiền kính,

    Các vấn đề bác đặt ra rất hay (thời điểm và không gian nguyên thuỷ của 12 con giáp, thời gian và không gian của tiếng Hán cổ, tiếng Việt cổ ... Nhớ rằng thời Tiên Tần TQ chỉ là một dúm nhỏ ở đông bắc địa phận TQ hiện nay) - sẽ trở về các vấn đề mở rộng này - tuy nhiên, trở lại với đề tài Mèo hay Thỏ? này, xin được thêm vài nhận xét (trích từ các bài viết "Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp"):


    Liên hệ Mão Mẹo và mèo rất dễ hiểu: các âm này đều thuộc thanh vực trầm3 (trọc) và nguyên âm e (của Mẹo mèo) là dạng cổ hơn của nguyên âm a (của Mão) như hè hạ (Hán Việt), xe xa, keo giao, vẽ hoạ, mè (vừng) ma, chè trà, beo báo ...v.v... Tương quan tự nhiên còn thể hiện qua cách dùng lòng (bụng dạ) - bộ phận thấp nhất trong cơ thể con người - thay vì tim hay não bộ (óc): lòng tốt hay tốt bụng (hảo tâm HV), buộc lòng, mất lòng ... Khi nhập vào tiếng Hán, lòng trở thành đảm 膽: theo GS Axel Schuessler (A) thì đảm 膽 có gốc phương Nam (Nam Á, Austroasiatic) và một dạng âm cổ phục nguyên là *tlam?. Schuessler ghi nhận âm cổ Bahna Bắc/ProtoNorthBahnar là *klàm (gan/liver), tiền Việt-Mường/Proto Viet-Muong *lɔ:m, Katuic *luam hay dạng khác hơn với phụ âm đầu t- như tiền Palaunic/proto Palaunic *kơntɔ:m (gan). Tra thêm các ngôn ngữ láng giềng ta thấy klơm (gan, tiếng Kơho), tho-lom (gan, tiếng Khme) so với LÒNG tiếng Việt gồm các bộ phận như ruột, gan ... ‘Phật Thuyết Đại Báo Ân Trọng Kinh’ còn dùng 'lòng gan đều nát' (lòng chữ Nôm thường dùng lộng 弄, làõ theo Việt Bồ La 1651) phản ánh tương quan can đảm (Hán) và lòng gan/ruột gan (Việt); Ngoài ra cách dùng lõm súng (lòng súng, nòng súng), lõm chuối, lõm cây (lòng cây)... cho thấy liên hệ trực tiếp giữa dạng LÒNG - LÕM, thật ra khi phát âm LÒNG bây giờ - tiếng Việt luôn đóng môi lại (môi hoá, như LÒNG) chứ không để môi mở như các dạng LONG của tiếng Anh, Pháp … Tiếng Mường (Bi) còn dùng ‘lòm’ là gan: ‘ho ưa ăn lòm củi’ (tôi thích ăn gan heo). klơm là gan (tiếng Biat), k'lơm (gan, tiếng Boloven) ...v.v... Tóm lại, ta có cơ sở đề nghị cấu trúc dạng cổ phục nguyên *tlam? hay *klam? đã nhập vào tiếng Hán cho ra dạng đảm 膽. Trường hợp âm cổ phương Nam *tlam?/klam? (lòng, một lòng) trở thành đảm (can đảm, đảm lược ...) khi nhập vào tiếng Hán không phải là hiếm, ta còn có những trường hợp như *krong (sông) khi nhập vào tiếng Hán trở thành *kong hay jiāng BK (giang HV) ... (tt)

    ReplyDelete
  7. Nguyễn Cung ThôngFebruary 24, 2011 at 5:34 AM

    Nhìn rộng ra hơn, tên 12 con giáp Tý Sửu Dần ... Mão ... Tuất Hợi khi nhập vào tiếng Hán đã mất đi phần nào ý nghĩa nguyên thuỷ của tên gọi các loài động vật rất gần gũi với nhà nông. Không những thế, chúng còn được tô son điểm phấn (Hán hoá) và rất khó nhận ra các liên hệ cụ thể nguyên thuỷ: chúng trở thành những khái niệm trừu tượng (được ‘nâng cấp’) trong bói toán và cách ghi ngày tháng (kết hợp với Thập Can); Đây cũng là một lợi thế của nhóm thống trị có chữ viết sẵn (chữ Hán) và khả năng tổ chức. Lợi thế của một hệ thống chữ viết có sẵn như chữ ô vuông (chữ Hán) có thể là chỉ thêm một dấu phẩy nhỏ mà nghĩa lại đổi hẳn đi. Thí dụ như chữ quốc5 chẳng hạn, một dạng chữ quốc 囯 cổ đại viết bằng bộ vi 囗 hợp với chữ vương 王 hàm ý lãnh thổ có giới hạn/biên giới và có vua đứng đầu, tuy nhiên khi thêm một dấu phẩy nhỏ vào bên phải chữ vương thì vương 王 lại trở thành ngọc 玉. Chữ quốc cổ đại 囯 với chữ vương - phản ánh chế độ vua chúa phong kiến - nay đã thay bằng chữ quốc với chữ ngọc 国 hàm ý lãnh thổ (bộ vi) chứa những tài sản quý báu (như dân chúng, ngọc ngà châu báu/đất đai ...). Chữ quốc với chữ ngọc 国 cũng là loại chữ giản thể rất thông dụng hiện nay. Hiện tượng 'thay đổi chữ viết' một cách thâm thuý6 trên có thể giải thích được chữ thố/thỏ 兔 đã dùng thay cho chữ miễn/*mãn/ vãn 免 - âm *mãn đã từng có nghĩa là mèo trong tiếng Việt. Sự lẫn lộn8 giữa mèo và thỏ còn thấy trong cách dùng dã miêu 野猫 để chỉ loài thỏ hoang (wild rabbit) và mèo hoang trong văn hoá TQ và đáng chú ý

    Vài hàng rất vắn tắt thân gởi và cùng đóng góp, chúc bác và các bạn đọc một ngày vui vẻ

    Nguyễn Cung Thông

    (A) "ABC Etymological Dictionary of Old Chinese" soạn bởi GS Axel Schuessler - NXB University of Hawai'i (Honolulu, 2007).

    (B) dấu ấn của giao lưu văn hoá ngôn ngữ qua các chữ giang *krong/krung, đảm *tlam?/klam? ... và tên 12 con giáp là cánh cửa hé mở cho thấy vùng không gian và thời gian liên hệ - xem chi tiết trong bài http://www.khoahoc.net/baivo/nguyencungthong/091210-danhtucasau-1.htm

    ReplyDelete
  8. Rất nhiều người đánh đồng khái niệm Can Chi với khái niệm Sinh Tiêu. Can Chi là cái có trước,người Trung Quốc tính ngày giờ năm tháng theo thiên can địa chi còn trước cả thời Kinh Thi. Giáp Cốt thời Thương xuất hiện nhan nhản. Còn Sinh Tiêu, rõ ràng là thứ du nhập sau này, và khi mới du nhập, trật tự 12 con giáp không như chúng ta thấy hiện nay. Cũng tức là tên của Can Chi không liên can gì đến các con vật trong 12 con giáp. Mặc dù sau này, có nhiều đồng chí Trung Quốc cố gắng lèo lái để chứng minh Sinh tiêu có nguồn gốc Trung Hoa. 12 con giáp của VN rõ ràng là du nhập từ Trung Hoa kể từ sau khi thứ tự của 12 con giáp Trung Hoa đã được định vị. Mão- Thỏ Trung Hoa vào Việt Nam trở thành Mèo cũng không phải là điều khó hiểu. 12 con giáp của dân tộc Thái, Hợi tương đương với con voi.

    ReplyDelete
  9. This comment has been removed by the author.

    ReplyDelete
  10. nguyencungthong@yahoo.comJune 19, 2011 at 9:55 AM

    Bác TQĐức mến,

    Trích từ bài "Nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp (phần 10) Tý/Tử-*chút-chuột" trang này http://www.khoahoc.net/baivo/nguyencungthong/280208-muoihaicongiap-ty.htm

    '...Ngoài ra khi so sánh tên gọi 12 con giáp của các ngôn ngữ Đông Nam Á, tiếng Thái có vẻ như gần với tên gọi 12 con thú như tiếng Việt – xem bảng tổng kết trong bài “Nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp - phần 2”; Thí dụ như Tý/Tử - còn gọi là chuat3 trong tiếng Thái. Thật ra, chuat3 chỉ dùng cho năm Tý/Tử và không dùng để chỉ con chuột! Tiếng Thái có tiếng nŏo หนู (hay có khi ghi là nuu) chỉ con chuột, hay dùng tiếng moo-sik mượn từ tiếng Phạn7. Điều này cho thấy hệ thống tên gọi tiếng Thái mượn từ tiếng Việt cũng như các tên gọi khác như khan (kễnh), roong1 (rồng)…Tóm lại Tý/Tử (zĭ, zí, cí BK) liên hệ trực tiếp đến chuột của tiếng Việt...'

    Vài hàng thân gởi

    Nguyễn Cung Thông (còn tiếp)

    ReplyDelete
  11. Nguyễn Cung ThôngJune 27, 2011 at 7:07 AM

    Bạn TQĐức mến,

    Trên mạng Bách Khoa TQ, bản đồ các nước dùng thập nhị lại không có VN, Lào, Thái Lan, Kampuchia? Các thông tin trên của bạn Quách Hiền cũng có thể tìm thấy (và tra cứu thêm) trên mạng Bách Khoa TQ như http://zh.wikipedia.org/wiki/%E7%94%9F%E8%82%96%E7%BA%AA%E5%B9%B4%E6%B3%95

    Vài hàng thân gởi và cùng đóng góp

    Nguyễn Cung Thông (còn tiếp)

    ReplyDelete
  12. Nguyễn Cung ThôngJuly 7, 2011 at 6:46 AM

    Bạn Quách Hiền kính,

    Định gới thông tin này nhiều lần nhưng lu bu công việc quá - hôm nay rảnh một chút (một *chuột, một Tý) vội gởi ngay nhỡ lại quên. Bạn nên xem lại chi tiết về thẻ tre làng Vân Mộng ... tỉnh Hồ Bắc (nước Sở cổ, chứ không phải Hà Bắc ở miệt trên TQ nữa như bạn viết bên trên).

    Vài hàng rất vắn tắt cùng đóng góp

    Nguyễn Cung Thông

    ReplyDelete