Thursday, October 25, 2012

Lưu Hương kí có thật là báu vật quốc gia?



MỘT SỐ HIỆN TƯỢNG BẤT ỔN CỦA VĂN BẢN LƯU HƯƠNG KÍ
Phạm Vô công tiên sinh[1]
Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là tác giả có vị trí đặc biệt quan trọng. Tuy vậy, trước thời điểm phát hiện bản Lưu Hương kí, giới nghiên cứu chỉ biết đến Hồ Xuân Hương với danh nghĩa tác giả của các bài thơ Nôm truyền tụng, còn hành trạng tác giả thì nói như nhà thơ Hoàng Trung Thông: “Thật mỉa mai, không ai biết rõ”. Chính vì thế, sự xuất hiện của Lưu Hương kí đầu những năm 1960 thực sự đã gây được sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu, Hồ Xuân Hương lúc này không còn là một tác giả được thế tục truyền tụng nữa, mà có trước tác truyền lại, ghi rõ sách do “Cổ Nguyệt đường Xuân Hương nữ sử người ở Hoan trung biên tập”. Những tưởng với Lưu Hương kí, các vấn đề liên quan đến sự nghiệp sáng tác và hành trạng Hồ Xuân Hương sẽ được sáng tỏ hơn, song trên thực tế vấn đề dường như không hẳn như vậy. Sự cách biệt về phong cách giữa bộ phận thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương vốn đã lưu hành rộng rãi từ lâu với các bài thơ chữ Hán trong Lưu Hương kí mới được phát hiện khiến cho vấn đề văn bản thơ Hồ Xuân Hương trở nên có phần phức tạp hơn trước. Đến nay, qua hơn 40 năm kể từ khi Lưu Hương kí được phát hiện, tuy đã có những khảo cứu nhất định về văn bản, song chưa có công trình nào giải quyết được vấn đề văn bản học Lưu Hương kí một cách rốt ráo.
Lưu Hương kí bản hiện còn (kí hiệu của Thư viện Viện Văn học: HN. 336) không ghi niên hiệu, tựa, bạt. Mở đầu là phần chép các tác phẩm thuộc thể loại từ và nhạc phủ, được định danh là “Nhạc phủ từ”. Nếu như ở phần thơ, các câu thơ được viết liên tục thì ở phần này, một số bài từ, các câu được chép cách nhau, cho thấy tác giả, hoặc giả là người chép sách có ý thức một cách rõ ràng trong việc trình bày tác phẩm, nhằm tạo ra sự khu biệt nhất định giữa tác phẩm thơ và các tác phẩm thuộc thể loại từ.
Tác phẩm mở đầu Lưu Hương kí mang tên Thuật ý kiêm giản hữu nhân Mai Sơn Phủ (Thuật lại ý mình, gửi bạn Mai Sơn Phủ). Cuối bài ghi rõ “Hữu Giang Nam điệu”, nghĩa là: bên phải đây là điệu Giang Nam. Các sách từ phổ ghi nhận rất nhiều điệu trong tên từ điệu của nó có hai chữ “Giang Nam”, như: Giang Nam hảo, Giang Nam khúc, Giang Nam xuân, Giang Nam thụ… nổi tiếng nhất trong số đó là điệu Giang Nam hảo. Do vậy, khi là các bài từ điệu này, đôi khi các tác giả gọi tắt là Giang Nam, hoặc gọi theo tên khác là Ức Giang Nam.
Theo từ phổ, điệu Giang Nam hảo có hai loại, đơn điệu (một đoạn) và song điệu (hai đoạn). Loại đơn điệu gồm 27 chữ, song điệu gồm 54 chữ. Bài điệu Giang Nam trong Lưu Hương kí gồm 260 chữ, dung lượng lớn hơn điệu từ dài nhất trong từ sử (điệu Oanh đề tự, chỉ lên đến 240 chữ), hiển nhiên nó không phải điệu Giang Nam hảo. Nếu coi đây là tác phẩm thuộc thể loại từ thì đó quả là một tác phẩm từ độc nhất vô nhị mà giới từ học trên toàn thế giới chưa từng biết đến. Bài Thuật ý kiêm giản hữu nhân Mai Sơn Phủ có dấu hiệu là một sáng tác được chắp ghép từ nhiều bài, trong đó có dấu vết rõ ràng của điệu Trường tương tư. Nhưng cho dù vậy, sáng tác ra một tác phẩm với thể thức chưa từng có, lại dùng tên một điệu từ nổi tiếng để định danh thể thức cho nó, điều này chứng tỏ tác giả (hoặc giả là người chép sách) Lưu Hương kí hiển nhiên không có hiểu biết về từ học. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương thông minh, sắc sảo của chúng ta lẽ nào lại là một người như vậy?
Tác phẩm thứ hai trong Lưu Hương kí khôngtừ đề, cuối bài ghi rõ: “Bài bên phải theo điệu Thiếu niên du.Thiếu niên du đích xác là tên một điệu từ, là loại song điệu (phân làm hai đoạn), có hai dạng thức cách luật, một gieo vần trắc, một gieo vần bằng. Bài Thiếu niên du trong Lưu Hương kí gieo vần bằng nên ta chỉ xét cách luật của dạng thức thứ hai - dạng gieo vần bằng. Theo từ phổ, dạng gieo vần bằng gồm 50 chữ, đoạn trước gồm 5 câu gieo ba vần bằng, đoạn sau 5 câu gieo 2 vần bằng; có một số bài giảm thành 48 chữ, tăng thành 51 hoặc 52 chữ. Bài từ điệu Thiếu niên du trong Lưu Hương kí có 44 chữ, cú thức là 4/4/5/4/4/5/5/4/4/5, gieo 5 lần vần bằng ở các câu 1, 3, 6, 7, 10; so với cách luật của từ điệu Thiếu niên du, rõ ràng không có sự tương thích. Từ phổ liệt kê thêm một số biến thể của điệu từ này song cũng hoàn toàn không có bài nào có cách luật giống bài Thiếu niên du trong Lưu Hương kí. Như vậy bài thứ hai này cũng không phải điệu Thiếu niên du. Vị nữ sĩ được ông Tốn Phong khen ngợi là “học rộng mà tinh thuần” (Bài tựa Lưu Hương kí, chép trong Du Hương tích động kí, kí hiệu A. 2814, Viện Nghiên cứu Hán Nôm) sáng tác một bài từ ngắn như trên chẳng lẽ lại nhầm lẫn đến thế sao?
Tác phẩm thứ ba trong Lưu Hương kí cũng không có từ đề. Cuối bài ghi rõ: “Bài bên phải làm theo điệu Xuân đình lan”. Các bộ từ phổ đều không ghi nhận bất cứ điệu từ nào có tên gọi tương tự. Xem xét kĩ, tác phẩm này phần đầu khá giống điệu từ điệu Nhất tiễn mai. Có thể tác giả Lưu Hương kí đã vay mượn đôi chút dạng thức cách luật của điệu Nhất tiễn mai để “chế hóa” thành bài Xuân đình lan. Điệu thức bài Xuân đình lan này không giống bất cứ điệu từ nào đã từng được ghi nhận, như vậy, tương tự trường hợp bài từ đầu tiên trong Lưu Hương kí, đây cũng là một điệu từ mà giới nghiên cứu từ học toàn thế giới chưa hề biết đến!
Tác phẩm thứ tư trong Lưu Hương kí mang tên Thu dạ hữu hoài, không có tên từ điệu. Với một tác phẩm từ, từ điệu quan trọng hơn từ đề. Sự thiếu vắng từ điệu trong trường hợp này cho thấy cách ghi chép có phần tùy tiện của Lưu Hương kí. Vậy bài trên đây nếu là tác phẩm từ thì nó sẽ thuộc về điệu nào? Xét về dung lượng, bài này gồm 54 chữ, thuộc phạm vi tiểu lệnh (là những điệu từ dung lượng nhỏ, số lượng từ 16 đến 58 chữ). Bốn câu đầu bài này đều là các câu 7 chữ. Trong phạm vi các bài từ tiểu lệnh, chỉ có một số ít điệu như: Giá cô thiên, Ngọc lâu xuân, Song đới tử… có cú pháp như vậy. Xét kiểu câu và cách gieo vần 4 câu đầu trong bài Thu dạ hữu hoài, có thể nhận thấy nét tương đồng của chúng với phần thượng phiến (nửa trên) điệu Giá cô thiên, song nếu xét toàn bài thì không một điệu từ dạng tiểu lệnh nào gieo thuần vần bằng, gồm 54 chữ có cách luật giống như bài này. Bài Thu dạ hữu hoài vốn có hình thức của thể từ, đi liền với các bài có mang từ điệu ở phía trước, nhưng trên thực thế nó cũng không thuộc bất cứ một điệu từ nào.
Từ là một thể loại ít xuất hiện trong văn học trung đại. Phải chăng chính vì thế nên khi sáng tác thể loại này, với cá tính đầy phóng túng cùng sự sáng tạo của mình, Hồ Xuân Hương chỉ vay mượn một số đặc điểm hình thức thể loại từ rồi sáng tác một cách hoàn toàn tự do theo ý mình, không chịu câu thúc bởi từ luật? Giả thuyết này thoạt nghe có vẻ hữu lí, song xét kĩ vẫn không thể đứng vững được, bởi một lẽ đơn giản rằng từ điệu chính là sự biểu hiện của dạng thức cách luật của các bài từ, nếu Hồ Xuân Hương không câu thúc vào từ luật thì tại sao sau khi đã tạo ra các bài từ không tuân thủ bất cứ một dạng thức cách luật nào lại lấy tên các từ điệu nổi tiếng nhằm định danh thể loại và dạng thức cách luật của chúng? Làm như vậy chẳng phải nữ sĩ họ Hồ đã tự mâu thuẫn với chính mình ư?
Tác phẩm thứ năm trong Lưu Hương kí mang tên Thu phong ca. Bài này mở đầu các sáng tác theo lối nhạc phủ. Đọc bài thơ, có cảm giác khá quen thuộc, nhất là câu “Hoài giai nhân hề bất năng vong” (Nhớ người đẹp chừ chẳng thể quên). Xét kĩ, 4 câu đầu bài này chép nguyên vẹn 4 câu đầu bài Thu phong từ (bài hát về gió thu, một bài nhạc phủ thời Hán) của Hán Vũ đế Lưu Triệt (156 Tr. CN-87 Tr.CN); ngay nhan đề tác phẩm cũng chỉ thay đi đôi chút mà thôi! Một bài 8 câu thơ mà đến 4 câu đã là “đạo thơ” của Hán Vũ đế, dựa vào đâu để chắc chắn rằng 4 câu sau không phải là đạo thơ của tác giả khác?
Kết quả khảo sát lần lượt 05 tác phẩm đầu tiên trong Lưu Hương kí cho thấy cả 05 tác phẩm được khảo sát đều có dấu hiệu hết sức bất thường, tuy chưa thể dựa vào đó để đánh giá về vấn đề tác quyền của Lưu Hương kí, song cũng tạm đủ để người đọc nhận thấy tính chất phức tạp của văn bản Lưu Hương kí, và ít nhiều gợi cho chúng ta sự nghi ngờ về giá trị đích thực của nó. Do vậy, thiết nghĩ tập Lưu Hương kí cần có sự giám định, khảo cứu thật kĩ càng về văn bản. Việc làm này nên được thực hiện bằng một thái độ cẩn trọng và khoa học, dưới cái nhìn nghiêm khắc, thậm chí là lạnh lùng đến nghiệt ngã của nhà văn bản học, thay vì được tiến hành với cái nhìn đầy thiện cảm đối với một nhà thơ nổi tiếng, cái nhìn theo kiểu các “fan” hâm mộ Hồ Xuân Hương. Xuất phát từ sự phức tạp của văn bản Lưu Hương kí, trước khi có một công trình khảo cứu thật tỉ mỉ, riết ráo về cuốn sách này, thiết tưởng các nhận định kiểu: Lưu Hương kí là “báu vật”, “di sản quý”, “của báu quốc gia”, v.v… như một số nhà nghiên cứu đã phát ngôn gần đây e rằng hơi vội vàng, chưa đủ cơ sở khoa học.

 .................................................................................................
Chủ nhân blog không có lời bình luận nào, chỉ muốn cung cấp thêm một ghi chú nhỏ về nguồn gốc của văn bản này cho những người từng tôn vinh Lưu Hương ký là "báu vật quốc gia", để họ ngõ hầu có thể dùng đến nếu muốn lập hồ sơ UNESCO cho sách: :))  

Luu Huong ki
Trang đầu của bản Lưu Hương kí
Đây là trang đầu tiên của tập Lưu Hương kí. Ngay dưới tên sách Lưu Hương kí là những dòng ghi chú bằng tiếng Hán của người tìm ra sách: "Sau giải phóng ngẫu nhiên lục sọt cũ tìm được bản này trong đám sách nát, nhân đó phiên ra quốc văn kính gửi ban Văn Sử Địa Trung Ương để các ông thẩm duyệt, tham đính hoặc bổ sung". (Nguyễn Văn Tú cẩn chí) (1957).(Mở ngoặc: Ông Nguyễn Văn Tú là người ở Nam Định). 



[1] Bài đã đăng trên báo Người Hà Nội số ra ngày thứ 6 (26/10/2012)

Monday, October 15, 2012

Dâng hiến


Cho Đôn Ki Hô Tê và Trọc Phú xứ T.

...Hôm nay tôi muốn nói với bạn rằng chúng ta cũng như những nhân vật trong Mãi đừng xa tôi, chúng ta là những người sinh ra để “hiến”. Họ hiến tạng, còn chúng ta sinh ra để dâng hiến niềm tin cho những thứ không đáng tin, dâng hiến sự hi sinh cho những thứ chẳng đáng để hy sinh, dâng hiến niềm say mê cho những thứ rồi đây sẽ chỉ là vô nghĩa. Nhưng chúng ta như thế còn đỡ đáng thương hơn những kẻ cứ thích dâng hiến cho những gì không thuộc về họ….
 (Từ một entry blog cũ , năm 2008. )